Chụp X-quang đường tiết niệu tiêm tĩnh mạch: Kỹ thuật và diễn giải

phim uiv

Bản gốc
– Tiêu đề: Intravenous Urography: Technique and Interpretation
– Tác giả: Dyer RB, Chen MY, Zagoria RJ
– Nguồn: Radiographics July 2001 21:799-824. DOI: 10.1148/radiographics.21.4.g01jl26799
Bản dịch
– Tiêu đề: Chụp X-quang đường tiết niệu tiêm tĩnh mạch: Kỹ thuật và diễn giải
– Người dịch: ThS.BS. Lê Anh Tuấn – BV Bạch Mai (bsxqtuan.wordpress.com)

Bài viết trong series DẤU HIỆU CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH trình bày các dấu hiệu hình ảnh gợi ý hoặc đặc hiệu trên XQ, CT, MRI, Siêu âm.

Ghi chú của người dịch: UIV quen dùng hơn chữ viết tắt tiếng Anh IVU

Giới thiệu

Từ nhiều thập kỷ qua, chụp X-quang đường tiết niệu tiêm tĩnh mạch (UIV) là phương thức chẩn đoán hình ảnh hàng đầu trong đánh giá đường tiết niệu. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các phương thức chẩn đoán hình ảnh khác như siêu âm, cắt lớp vi tính (CT), và cộng hưởng từ (MRI) được sử dụng với tần suất ngày càng tăng để bù trừ những hạn chế của UIV trong đánh giá đường tiết niệu [1]. Nhưng cũng giống như UIV, những phương pháp này cũng có những hạn chế. Phần lớn các đoạn đường tiết niệu không nhìn thấy bằng siêu âm; CT cần tái tạo ảnh để đánh giá biểu mô đường tiết niệu; MRI có thể không phát hiện được vôi hoá hoặc cho phép nhìn đủ rõ để đánh giá bất thường biểu mô đường tiết niệu. Do đó, mặc dù các phương thức thay thế này được sử dụng ngày càng tăng, nhưng phương thức khảo sát “toàn thể” đường tiết niệu một cách lý tưởng vẫn còn gây tranh cãi [1,2]. Theo ý kiến chúng tôi, CT với những ảnh tái tạo và số hoá không cung cấp đủ các chi tiết giải phẫu để đánh giá những khối u biểu mô đường tiết niệu hoặc bệnh của hệ thống góp [3].

Trong bài báo này, chúng tôi bàn luận và minh hoạ kỹ thuật X quang đường tiết niệu cơ bản, điểm lại những quy tắc đọc phim x quang đường tiết niệu, và bàn luận tầm quan trọng của các qui tắc này trong diễn giải những dấu hiệu gặp trong các phương thức chẩn đoán hình ảnh khác.

Chụp X quang đường tiết niệu chuẩn

Giống như các nghiên cứu hình ảnh khác, kỹ thuật UIV nên thay đổi linh hoạt để trả lời một vấn đề lâm sàng cụ thể [4,5]. Kỹ thuật UIV chuẩn của chúng tôi để thu được các ảnh tối ưu được liệt kê trong Bảng dưới đây [6-10].

Các bướcMô tả
1Phim XQ sơ bộ: trường phim bao gồm thận-niệu quản-bàng quang
Lý tưởng: thêm các phim chếch
2Tiêm thuốc cản quang
3Phim thận (1-3 phút sau tiêm thuốc cản quang): các phim trực chuẩn với các thận
Lý tưởng: các phim thận chếch
4Phim thận-niệu quản-bàng quang (5 phút sau tiêm thuốc cản quang)
5Ép bụng (ngay sau khi xem lại phim 5 phút)
6Phim bể thận trực chuẩn với thận (5 phút sau ép, 10 phút sau tiêm thuốc cản quang)
Lý tưởng: các phim chếch, các ảnh đầy bàng quang sớm
7Phim niệu quản-bàng quang (15 phút sau tiêm thuốc cản quang và ngay sau khi tháo ép) : phim thận-niệu quản-bàng quang, các phim chiếu dòng chảy của niệu quản
Lý tưởng: phim thận-niệu quản-bàng quang chếch, các phim nằm sấp, các phim đứng, phim thận-niệu quản-bàng quang muộn
8Phim bàng quang (bàng quang có thể thấy đầy đủ trên các phim niệu quản)
Lý tưởng: phim muộn, chếch, nằm sấp, sau đi tiểu

Phim thận-niệu quản-bàng quang sơ bộ là một phần không thể thiếu của chụp UIV. Các phim nên được chụp với kỹ thuật thích hợp (65-75 kVp, milliampere cao, thời gian phát tia ngắn) để tăng độ tương phản mô mềm vốn có và đánh giá rõ các tổn thương chứa canxi có khả năng thuộc đường tiết niệu [8]. Cần thiết có thể chụp thêm phim để đánh giá các phần của đường tiết niệu không nhìn thấy trên phim chuẩn 35x40cm. Phim chụp nên bao quát vùng từ trên thận tới bờ dưới khớp mu (Hình 1) [8]. Bệnh nhân nên tháo bàng quang (đi tiểu, hoặc mở sonde bàng quang) ngay trước khi chụp phim này.

chup uiv - hinh 01

Hình 1. Sỏi niệu đạo ở một bệnh nhân có tiền sử đau sườn phải gần đây. Phim trực chuẩn (khu trú) cho thấy nốt vôi hóa ở giữa khớp mu (mũi tên). Phim này chỉ nhận ra nốt vôi hóa. CT giúp khẳng định sỏi niệu đạo. Trường hợp này chứng minh tầm quan trọng của chụp phim bao phủ toàn bộ cấu trúc giải phẫu của hệ tiết niệu.

Đánh giá vị trí sỏi ở trong ổ bụng đối với đường tiết niệu nên được thực hiện trước khi tiêm thuốc cản quang, bởi vì thuốc cản quang có thể che lấp sỏi (Hình 2). Các phim xq thường tư thế chếch có thể rất hữu ích để xác định vị trí và bản chất của sỏi. Điều này đặc biệt quan trọng khi một bệnh nhân có đau hạ sườn nhưng không thấy sỏi đường tiết niệu trên phim sơ bộ (giải phẫu phức tạp của xương cùng có thể che khuất sỏi, ngay cả khi sỏi khá to)(Hình 3). Mặc dù đánh giá đau mạn sườn bằng CT không tiêm thuốc cản quang đã làm giảm bớt sự cần thiết của khảo sát này, tuy nhiên các kỹ thuật chụp chếch có thể quan trọng khi dùng để theo dõi.

chup uiv - hinh 02a

Hình 2a. Sỏi. (a) Phim UIV cho thấy giãn không đáng kể hệ thống góp, có thay đổi không dễ phát hiện ở niệu quản.

chup uiv - hinh 02b

Hình 2b. Sỏi. (b) Phim XQ sơ bộ cho thấy một sỏi 8mm ở niệu quản (mũi tên). Trường hợp này chứng minh một sỏi bị thuốc cản quang che khuất.

chup uiv - hinh 03a

Hình 3a. Sỏi ở một bệnh nhân đau mạn sườn phải. (a) Phim sơ bộ trực chuẩn khung chậu không thấy sỏi.

chup uiv - hinh 03b

Hình 3. Sỏi ở một bệnh nhân đau sườn phải. (b) Phim chụp chếch sau phải khung chậu cho thấy sỏi niệu quản 6mm được tách ra. Trường hợp này chứng minh sỏi có thể bị che khuất do giải phẫu phức tạp của xương cùng.

Ở các bệnh nhân được chụp cắt lớp thận (nephrotomography) sau tiêm thuốc cản quang, một phim cắt lớp thận sơ bộ được thực hiện trước. Chúng tôi sử dụng công thức sau để xác định mức chụp cắt lớp sơ bộ [11-13]: (đường kính trước sau bụng [cm] x 1/2) – 2cm. Trên cơ sở hình ảnh thận của phim này, có thể điều chỉnh các mức để thu nhận các phim sau tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch. Có thể chụp thêm các phim cắt lớp thường (tomography) trước khi tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch ở các bệnh nhân có sỏi đường tiết niệu. Các phim sơ bộ luôn được xem xét lại để phát hiện các bệnh đường tiết niệu và chú ý phát hiện các bệnh khác của ổ bụng có thể giả bệnh nguồn gốc đường tiết niệu (Hình 4).

chup uiv - hinh 04

Hình 4. Một bệnh nhân được chuyển tới chụp UIV vì đau mạn sườn trái. Phim XQ sơ bộ cho thấy các vệt khí trong nhu mô thận cũng như tụ khí lớn quanh thận và bao quanh tuyến thượng thận. Phát hiện viêm thận bể thận khí thũng không yêu cầu đánh giá thêm bằng bất cứ phương pháp chẩn đoán hình ảnh nào nữa, mà cần can thiệp cấp cứu khẩn cấp.

Tổng kết về chất cản quang và sinh lý của bài tiết nước tiểu không nằm trong phạm vi của bài này, nhưng các tham khảo tốt rất sẵn có [6, 14-18]. Các chất cản quang sử dụng hiện nay được thận bài tiết hầu như chỉ riêng bởi lọc cầu thận, với sự tập trung tiếp theo ở trong đơn vị bài tiết sau cầu thận (postglomerular nephron) và cản quang dần đường tiết niệu. Các chuỗi phim cản quang tiết niệu được dự kiến để phác hoạ tối ưu từng đoạn của đường tiết niệu.

Với hầu hết mọi bệnh nhân mới, chúng tôi thực hiện chụp cắt lớp thận (nephrotomography) sau khi tiêm bolus (tiêm nhanh một lượng lớn) chất cản quang để nhìn nhu mô thận rõ nhất. Các phim cản quang nhu mô thận được tạo ra chủ yếu bởi chất cản quang được lọc trong đơn vị thận (nephron), với nhu mô thận cản quang rõ nhất 1-3 phút sau tiêm bolus [19]. Các mức cắt lớp được quyết định dựa trên các dấu hiệu lớp cắt định vị như đã mô tả ở trên. Chụp cắt lớp theo đường thẳng được thực hiện với cung 200 cho phép bao phủ hầu như toàn bộ thận trên ba lớp cắt cách nhau 1 hoặc 2cm. Bắt buộc phải thấy rõ toàn bộ đường chu vi thận để phát hiện khối. Chụp cắt lớp thận (nephrotomography) luôn được thực hiện sau tiêm thuốc cản quang ở các bệnh nhân đái máu khi nghi ngờ một khối, ở các bệnh nhân được chuẩn bị kém, và để đánh giá tối ưu nhu mô thận. Một phim XQ chuẩn khu trú đối với thận có thể đủ với các bệnh nhân trẻ khi tắc nghẽn là vấn đề cụ thể, khi chụp đường tiết niệu cản quang lặp lại ngay sau chụp cắt lớp, hoặc khi các thận đã được đánh giá bằng các phương thức cắt ngang (CT scanner, MRI) mà không thấy bất thường nhu mô thận. Nếu không thấy thận trong hố thận khi chụp cắt lớp ban đầu, một phim thận-niệu quản-bàng quang chụp ở thì thận có thể chứng minh một thận ở vị trí lạc chỗ. Các khối nhô ra từ mặt trước hoặc mặt sau thận nhưng không gây biến dạng bờ thận ở trên lớp cắt vành có thể bị bỏ sót. Chính trong các trường hợp này, chụp phim thận chếch hoặc cắt lớp thận chếch có thể có lợi.

Chụp thận-niệu quản-bàng quang 5 phút sau tiêm thuốc cản quang để đánh giá sự đối xứng về thời gian và quá trình cản quang giữa hai thận. Ép là một phần chủ yếu của kỹ thuật chụp cản quang tiết niệu (đặc biệt khi dùng chất cản quang độ thẩm thấu thấp). Ép luôn được áp dụng trừ khi có chống chỉ định đặc biệt [20,21]. Chúng tôi thích dùng một thiết bị có thể di chuyển xung quanh bệnh nhân hơn là một thiết bị gắn bệnh nhân vào bàn chụp. Các niệu quản bị ép vào xương cùng khi chúng chạy qua cánh xương cùng (Hình 5). Các chống chỉ định ép bụng bao gồm: dấu hiệu tắc trên phim 5 phút, phình tách động mạch chủ bụng hoặc một số khối u bụng khác, mới phẫu thuật bụng hoặc đau bụng nặng, nghi chấn thương đường tiết niệu, đường tiết niệu chạy bất thường hoặc ghép thận [22].

chup uiv - hinh 05a

Hình 5a. Giá trị của ép. (a) Phim 5 phút sau tiêm thuốc cản quang nồng độ thẩm thấu thấp, hệ thống góp hai bên không đầy và cản quang kém.

chup uiv - hinh 05b

Hình 5b. Giá trị của ép. (b) Phim 5 phút có ép, hệ thống góp căng và rõ hơn (mũi tên).

Một phim trực chuẩn đối với hai thận để đánh giá các đài thận và hệ thống góp được chụp sau tiêm thuốc cản quang 5 phút có ép [23]. Phim này rất quan trọng khi dùng chất cản quang độ thẩm thấu thấp bởi vì tăng bài niệu thẩm thấu và sự giãn căng của hệ thống góp có thể kém so với các chất cản quang độ thẩm thấu cao. Để đánh giá tốt nhất các niệu quản và hệ thống đài bể thận, thì các phim chếch hoặc cắt lớp lặp lại (cung 200, các lớp cắt dày) có thể có lợi (Hình 6). Các phim có ép chụp muộn hơn có thể cung cấp thêm các thông tin.

chup uiv - hinh 06a

Hình 6a. Giá trị của phim chếch. (a) Phim thẳng chụp thận phải 10 phút có ép gợi ý một chỗ khuyết thuốc bên trong hệ thống góp giữa hai cực bên thận phải (mũi tên).

chup uiv - hinh 06b

Hình 6b. Giá trị của phim chếch.(b) Phim chụp chếch sau phải dốc đứng chứng minh rằng khuyết thuốc đó do đỉnh nhú sau (mũi tên).

Chụp các phim trong thì đầy bàng quang sớm có thể quan trọng trong đánh giá các bệnh nhân nghi ngờ bệnh bàng quang. Với các chất cản quang độ thẩm thấu thấp, thì đầy bàng quang muộn do tăng bài niệu thẩm thấu tối thiểu có thể cần chụp ảnh trong khi ép để ngăn sự cản quang trong bàng quang trở nên quá lớn cho việc đánh giá đầy đủ.

Thả ép cho phép chuyển nhanh nhiều chất cản quang vào trong các niệu quản. Chúng tôi chụp một phim thận-niệu quản-bàng quang ngay sau khi tháo ép (15 phút sau khi tiêm thuốc cản quang) và bổ sung phim này bằng các phim chiếu dòng chảy niệu quản để đảm bảo toàn bộ bề mặt lòng các niệu quản đã được ghi hình (Hình 7) [6,24,25]. Nếu không có sẵn màn chiếu, có thể chụp các phim thận-niệu quản-bàng quang chếch đối với mục đích này. Thêm nữa, nên nhớ rằng nước tiểu cản quang nặng hơn nước tiểu không hoà chất cản quang. Các nghiệm pháp trọng lực như chụp bệnh nhân nằm sấp hoặc vị trí chếch, dốc đứng thường giúp nhìn thấy các đoạn không cản quang của các niệu quản, đặc biệt trong các trường hợp tắc nghẽn [26]. Chính trong các trường hợp đó, nên chụp các phim muộn khi mức tắc đã được cản quang và được nhận ra hoặc xác định rằng sự bài tiết của thận không đủ để cản quang.

chup uiv - hinh 07

Hình 7. Giá trị của chiếu dòng chảy. Các phim chiếu dòng chảy cho thấy toàn bộ bề mặt lòng của các niệu quản.

Nếu bàng quang đã cản quang và giãn căng đủ, nó có thể được đánh giá đầy đủ trên các phim đã chụp trước. Tuy nhiên, nếu có bệnh liên quan đến bàng quang, có thể chụp các phim muộn để bàng quang căng hơn, và chụp thêm các phim chếch, nằm sấp hoặc sau đi tiểu để đánh giá khuyết thuốc (Hình 8) [27].

chup uiv - hinh 08a

Hình 8a. Bàng quang xẹp. (a) Phim chụp bàng quang đầy, thành bàng quang kém rõ. Nhận ra chèn ép của tử cung bình thường ở bờ trên bàng quang.

chup uiv - hinh 08b

Hình 8b. Bàng quang xẹp. (b) Phim sau đi tiểu cho thấy bàng quang bình thường xẹp với các dải niêm mạc có độ rộng < 3mm.

Diễn giải các phim x quang đường tiết niệu

Nhu mô thận được đánh giá tốt nhất trong thì thận của chụp UIV. Nên đánh giá toàn bộ các bờ thận, và chụp cắt lớp thận (nephrotomography) luôn tốt hơn phim XQ chuẩn. Bờ thận bình thường nhẵn, khi một phần nào đó của bờ thận không nhìn rõ cũng cần phải tìm hiểu. Sự hiện hình XQ thận có sự cân xứng về thời gian [5]. Hiện hình thận đòi hỏi dòng máu đến thận đầy đủ, chức năng bài xuất nhu mô thận bình thường mà không có sự tắc nghẽn, và dòng chảy tĩnh mạch bình thường (Hình 9, 10) [5,19]. Kích thước của các thận nên được đánh giá trên mỗi phim chụp XQ tiết niệu, và được đánh giá tốt nhất trong thì thận cản quang. Luôn có phóng đại thận một cáchcố hữu khi chụp cắt lớp thường so với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác. Thận bình thường có thể dài từ 9 đến 13cm, thận trái lớn hơn thận phải 0,5cm [7, 28-30]. Mức chênh lệch lớn (thận phải lớn hơn thận trái 1,5cm, thận trái lớn hơn thận phải > 2cm) giữa hai thận yêu cầu chúng phải tìm hiểu nguyên nhân (Hình 11, 12).

chup uiv - hinh 09a

Hình 9a. Tiến triển hiện hình thận bất thường. (a) Ảnh cuối cùng của chụp cắt lớp thường cho thấy hai thận và các bể thận cân đối. Thận kích thước bình thường.

chup uiv - hinh 09b

Hình 9b. Tiến triển hiện hình thận bất thường. (b) Trên phim chụp 10 phút, không thấy bể thận. Hình hai thận vẫn còn ngấm thuốc cản quang, và các thận nhỏ hơn. Với sự thay đổi lớp ảnh này, bệnh nhân nên được đánh giá ngay lập tức để phát hiện giảm huyết áp liên quan đến thủ thuật hoặc phản ứng với thuốc cản quang tĩnh mạch.

chup uiv - hinh 10a

Hình 10a. Tiến triển hiện hình thận bất thường. (a) Phim 1 phút cho thấy sự cản quang nhu mô thận không cân đối nhu mô phải kém cản quang so với thận trái.

chup uiv - hinh 10b

Hình 10b. Tiến triển hiện hình thận bất thường. (b) Phim 80 phút cho thấy hình thận phải vẫn còn, rất đậm, một dấu hiệu của tắc nghẽn cao cấp tính. Một sỏi 2mm đã được phát hiện ở chỗ nối bể thận-niệu quản phải.

chup uiv - hinh 11a

Hình 11a. Hẹp động mạch thận phải. (a) Phim cắt lớp thứ tư từ loạt phim 1 phút x 5 (được thực hiện trong quá khứ để đánh giá tăng huyết áp do mạch thận) cho thấy thận phải nhỏ với mật độ cản quang nhu mô giảm và không cân xứng về thời gian của hệ thống góp bên phải so với bên trái.

chup uiv - hinh 11b

Hình 11b. Hẹp động mạch thận phải. (b) Phim 15 phút giúp xác nhận kích thước thận không cân xứng. Lưu ý nồng độ cao của chất cản quang ở hệ thống góp của thận phải so với bên trái.

chup uiv - hinh 12

Hình 12. Các thận to ở một bệnh nhân với các dấu hiệu sớm, không cân xứng của bệnh thận đa nang di truyền trội. Phim cắt lớp thận cho thấy hai thận to lên, thận trái to hơn thận phải. Lưu ý có nhiều khuyết nhu mô thận (thận đồ hình “pho mát Thụy Sĩ”).

Các bất thường đường viền bờ thận có thể phối hợp với sự thay đổi độ dày nhu mô, và nên luôn được làm sáng tỏ liên quan tới hình thái của hệ thống góp của thận ở dưới. Vẽ ra “đường liên nhú” luôn có ích trong đánh giá độ dày nhu mô (Hình 13) [31]. Độ dày nhu mô từ 3-3,5cm ở các cực và 2-2,5cm ở vùng giữa các cực. Các khuyết hoặc độ dày nhu mô tăng có thể là một biến đổi giải phẫu bẩm sinh [5,7,22,32]. Những bất thường này có xu hướng xảy ra ở các vị trí có thể dự báo trước (Hình 14, 15). Độ dày nhu mô giảm đối diện với hình bất thường đài thận có thể phản ánh di chứng viêm (Hình 16) hoặc sẹo liên quan đến sỏi, trong khi giảm độ dày nhu mô thận xảy ra giữa các đài thận mà không có biến dạng đài thận ở dưới có thể do nhồi máu thận cục bộ. Độ dày nhu mô tăng phối hợp với biến dạng đài thận ở dưới là điển hình của các khối (Hình 17). Không ngấm thuốc trong tổn thương gợi ý một nang đơn thuần (Hình 18) [22]. Một chỗ nhô lên của nhu mô ở các bờ của tổn thương (hình “mỏ chim”, hình “càng”), trước đây được coi là một dấu hiệu của nang đơn thuần, nay thấy rằng nó chỉ phản ánh sự phát triển chậm của tổn thương trong nhu mô và có thể thấy ở các khối u thận lành tính và ác tính (Hình 19). Các khối cũng có thể tạo ra một “đường viền kép” trên cắt lớp thường, và là một dấu hiệu thường bị bỏ sót (Hình 20). Sự phát hiện các khối trong nhu mô bằng UIV đòi hỏi thêm các phương pháp cắt lớp hiện đại để xác định bản chất lành tính hoặc ác tính của tổn thương. Siêu âm thường được dùng khi các dấu hiệu xq tiết niệu gợi ý một nang, trong khi CT được khuyên dùng khi dấu hiệu xq tiết niệu gợi yg một tổn thương đặc.

chup uiv - hinh 13

Hình 13. Đường liên nhú bình thường. Hình vẽ minh hoạ bờ thận song song với đường nối đỉnh các nhú (đường chấm). Các trường hợp trệch khỏi hình này yêu cầu phải làm rõ.

chup uiv - hinh 14

Hình 14. Khía bình thường. Phim cắt lớp thận cho thấy một khía bờ ngoài ở chỗ nối 1/3giữa và dưới của thận (sulcus interpartialis inferior). Một khía tương tự cũng có thể xảy ra ở chỗ nối phần giữa và cực trên của thận (sulcus interpartialis superior). Các khía ở bờ thận thường phản ánh sự tồn tại của giải phẫu thận bào thai.

chup uiv - hinh 15

Hình 15. Độ dày nhu mô tăng ở thận bình thường. Chụp cắt lớp thấy nhu mô vỏ thận tăng (đầu mũi tên). Các vùng điển hình nhu mô thận nhô lên là các lưỡi thận, các cột vỏ thận (thường ở chỗ nối cực trên và 1/3 giữa thận).

chup uiv - hinh 16

Hình 16. Bệnh thận trào ngược. Chụp cắt lớp thận cho thấy giảm chiều dày nhu mô cực thận kết hợp với “tày” đài thận (hình chùy) ở dưới, dấu hiệu này điển hình trong bệnh lý trào ngược.

chup uiv - hinh 17

Hình 17. Ung thư biểu mô thận. Chụp cắt lớp thận cho thấy một khối ở phần giữa của thận trái (mũi tên) làm tăng chiều dày nhu mô và biến dạng hệ thống góp.

chup uiv - hinh 18

Hình 18. Nang đơn thuần. Chụp cắt lớp cho thấy khuyết nhu mô ở phần giữa của thận trái (mũi tên) với chiều dày nhu mô thận tăng và biến dạng hệ thống góp. Siêu âm giúp khẳng định một nang đơn thuần.

chup uiv - hinh 19

Hình 19. Nang đơn thuần. Chụp cắt lớp cho thấy nhu mô thận nhô lên ở các bờ (hình “mỏ vỏ thận”) của một khối không ngấm thuốc cản quang ở cực dưới thận trái (mũi tên). Tổn thương này đã được xác định là một nang đơn thuần trên siêu âm.

chup uiv - hinh 20

Hình 20. Ung thư biểu mô thận. Chụp cắt lớp cho thấy một bờ kép trong thận (các mũi tên). Dấu hiệu này có thể dễ dàng bị bỏ qua nhưng có thể là một sự quan sát quan trọng. CT giúp xác nhận sự hiện diện của một khối đặc lồi khỏi mặt sau thận và giải thích cho đường viền kép. Bệnh nhân đã được chứng minh khi phẫu thuật là ung thư biểu mô thận.

Vị trí của thận cũng nên được đánh giá khi chụp cắt lớp thận. Một phần của cực trên hai thận thường kéo dài lên trên xương sườn thứ 12, thận phải bình thường hơi thấp hơn thận trái do vị trí của gan. Trục thẳng dứng của thận song song với 1/3 trên của cơ thắt lưng. Các sự thay đổi trục hoặc vị trí có thể do các khối ổ bụng hoặc sau phúc mạc, thay đổi kích thước tạng, hoặc các bất thường thận bẩm sinh liên quan đến vị trí hoặc nối (Hình 21).

chup uiv - hinh 21

Hình 21. Thay đổi trục và vị trí. Chụp cắt lớp thận cho thấy sự thay đổi trục đặc trưng kết hợp với thận hình móng ngựa. Thận hình móng ngựa cũng phối hợp với các bất thường quay và vị trí. Các đặc điểm hình thái hệ thống góp và dẫn lưu bất thường kết hợp với tăng nguy cơ nhiễm khuẩn và hình thành sỏi, và các khối u biểu mô đường tiết niệu.

Trên phim 5 phút, hình XQ nhu mô thận (bình thường) giảm xuống trong khi hệ thống góp trở nên đậm đặc. Trên phim 10 phút, hình XQ bể thận rõ nhất. Sự thay đổi trong trình tự thời gian yêu cầu phải làm rõ [34]. Hệ thống góp và bể thận có thể nhìn thấy rõ hơn bằng việc sử dụng ép bụng, tư thể đầu dốc (Trendelenburg), và các nghiệm pháp trọng lực khác như đặt bệnh nhân ở vị trí chếch sau cùng bên. Hình thái các đài thận và bể thận nên được khảo sát kỹ bởi vì chụp X-quang tiết niệu tiêm thuốc cản quang là phương pháp hình ảnh chính xác nhất để nhìn rõ các bề mặt lót biểu mô đường tiết niệu và để đánh giá các bất thường tiềm tàng (ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp, các nếp niêm mạc, pyelitis cystica).

Các nhú ghép có ở các vùng cực, trong khi các nhú đơn với hình cốc của đài thận và các bờ túi cùng hình tam giác nhọn thường thấy ở vùng giữa các cực. Tắc nhẹ và sớm được biểu thị bằng sự lượn tròn các bờ túi cùng (Hình 22), tắc nặng và kéo dài biểu hiện bằng mất dần ấn của nhú và các đài thận tày (hình chùy). Nhận thấy chất cản quang bên trong các nhú có thể phản ánh một sự liên tục từ các vết thuốc của nhú qua giãn ống lành tính tới thận xốp tuỷ-medullar sponge kidney (Hình 23-25) [5,7,19]. Sự tập trung của thuốc cản quang trong nhu mô lớn hơn có thể phản ánh một tiến triển viêm như tuberculosis, các thay đổi của hoại tử nhú (Hình 26, 27), hoặc chỗ lõm do u liên quan tới ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp. Các túi nhỏ đầy thuốc cản quang nhô ra từ hệ thống góp có thể tương ứng với các đài thận yếu hoặc các túi thừa của hệ thống góp (Hình 28) [35]. Các khuyết thuốc trong các đài thận hoặc hệ thống góp cũng là một dấu hiệu quan trọng (Hình 29, 30). Các nhú lạc chỗ cũng tạo ra các dấu hiệu làm bối rối và có thể nhầm với các nguyên nhân gây khuyết thuốc bên trong hệ thống góp hoặc bể thận, quan trọng nhất là ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (Hình 31) [5]. Các cấu trúc nhu mô hoặc xoang thận và các tiến triển bệnh lý có thể biểu hiện bằng các dấu ấn đối với các thành phần của hệ thống góp (Hình 32).

chup uiv - hinh 22

Hình 22. Tắc nghẽn do sỏi đầu xa niệu quản trái ở một bệnh nhân đau sườn trái. Chụp cắt lớp thận cho thấy các túi cùng đài thận trái tròn lại, trong khi các túi cùng ở bên phải có hình góc nhọn. Hệ thống góp và niệu quản trái cũng giãn hơn.

chup uiv - hinh 23a

Hình 23. Papillary blush. (a) Phim XQ đường tiết niệu sớm cho thấy các nhú cản quang nổi bật nhưng không có cấu trúc ống dẫn nào ở vùng các nhú.

chup uiv - hinh 23b

Hình 23. Papillary blush. (b) Phim 10 phút có ép cho thấy đậm độ thuốc cản quang ở các nhú giảm, một dấu hiệu điển hình của papillary blush. Giảm đậm độ thuốc cản quang nhiều hơn nữa thường thấy ở các phim sau tháo ép.

chup uiv - hinh 24

Hình 24. Giãn ống ở một bệnh nhân đái máu vi thể. Phim xq đường tiết niệu trái có ép cho thấy các đường kẻ vằn ở tất cả các nhú. Chụp xq bể thận ngược dòng sau đó (không trình bày) cho thấy các ống không đầy thuốc, nghĩa là cơ chế chống trào ngược vẫn nguyên vẹn.

chup uiv - hinh 25

Hình 25. Thận xốp tủy. Phim XQ đường tiết niệu cho thấy các đám tụ chất cản quang ở đỉnh các nhú thận. Các sỏi ở trong các nhú đã được thấy rõ ở phim sơ bộ hiện ra “to lên” giống các khoang chứa đầy thuốc cản quang (dấu hiệu “sỏi lớn lên”), một dấu hiệu biểu thị thận xốp tủy.

chup uiv - hinh 26

Hình 26. Hoại tử nhú do thiếu máu hồng cầu hình liềm. Phim xq đường tiết niệu thì bể thận cho thấy sự kéo dài của chất cản quang từ các túi cùng vào trong nhu mô thận cực trên (mũi tên đen) và cực dưới (mũi tên trắng).

chup uiv - hinh 27

Hình 27. Hoại tử nhú thận do lạm dụng chất giảm đau. Phim XQ đường tiết niệu thì bể thận cho thấy các hang trung tâm nhiều nhú thận (các mũi tên).

chup uiv - hinh 28a

Hình 28a. Túi thừa đài thận. (a) Phim sơ bộ cho thấy một cụm vôi hóa ở cực trên thận phải.

chup uiv - hinh 28b

Hình 28b. Túi thừa đài thận. (b) Phim XQ bể thận cho thấy đầy thuốc chậm của một khoang lớn ở ngoại vi thông với đài trên cùng, một dấu hiệu phù hợp với túi thừa đài thận.

chup uiv - hinh 29

Hình 29. U đài thận (Oncocalix) nguồn gốc ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp. Phim XQ bể thận cho thấy đầy thuốc không đều ở các cấu trúc đài thận cực trên trái (mũi tên).

chup uiv - hinh 30

Hình 30. Ung thư tế bào chuyển tiếp ở một bệnh nhân có đái máu đại thể. Phim XQ đường tiết niệu thì bể thận cho thấy khuyết thuốc lớn của nhú (mũi tên) với sự không đều của chất cản quang ở bể thận và lòng niệu quản đoạn gần. Bệnh đã được chứng minh là ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp.

chup uiv - hinh 31

Hình 31. Nhú thận lạc chỗ ở một bệnh nhân có tiền sử ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp. Chụp cắt lớp được thực hiện có ép để làm giãn hệ thống góp cho thấy khuyết thuốc ở phễu giữa, gợi ý một nhú lạc chỗ. Phim chếch giúp xác nhận dấu hiệu XQ đường tiết niệu này. Lưu ý viền chất cản quang ở bờ của khuyết có hình cạnh này (mũi tên). bản chất lành tính của dấu hiệu đã được xác định bằng soi thận.

chup uiv - hinh 32a

Hình 32a. Các nang xoang thận. (a) Siêu âm thận trái gợi ý ứ nước thận. Dấu hiệu tương tự cũng có ở thận phải.

chup uiv - hinh 32b

Hình 32b. Các nang xoang thận. (b) Chụp cắt lớp thận có ép cho thấy các thành phần của hệ thống góp và bể thận hai bên hẹp và bị đẩy lệch mà không có ứ nước. Sự không phù hợp giữa dấu hiệu siêu âm và XQ đường tiết niệu này là điển hình của các nang xoang thận.

Ngoài giúp đánh giá độ dày nhu mô thận, đường liên nhú rất quan trọng để đánh giá sự hiện diện của các đài thận ở tất cả các phần đối diện với nhu mô. Mất sự đầy thuốc của một phần hệ thống góp (“đài thận ma”-“phnatom calix”) có thể do một tiến triển lành tính hoặc ác tính (Hình 33). Mặc dù có một xu hướng cân xứng giữa hai thận về số lượng các đài thận (thường từ 7-14 đài), điều này không phải luôn đúng. Trục của thận được phản ánh trong trục của hệ thống góp (Hình 34). Luôn có sự cân xứng về mật độ và thời gian cản quang ở hai hệ thống góp bình thường.

chup uiv - hinh 33a

Hình 33a. Tuberculosis. (a) Chụp cắt lớp thận: đậm độ cản quang nhu mô cực dưới giảm và không đầy thuốc ở các đài dưới (“đài thận ma”) thận trái.

chup uiv - hinh 33b

Hình 33b. Tuberculosis. (b) Chụp bể thận trái ngược dòng: các đài và phễu không đều ở cực dưới trái. Lưu ý hình “nhậy cắn” của các đài đó. Mẫu nước tiểu lấy trong thủ thuật (+) với tuberculosis. Các dấu hiệu tương tự có thể gặp trong một tiến triển thâm nhiễm như là ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp.

chup uiv - hinh 34

Hình 34. Ung thư biểu mô tế bào thận. Hình XQ bể thận cho thấy trục của cực dưới thận phải song song với bờ cơ thắt lưng và đảo chiều trục bình thường của hệ thống góp. Dấu hiệu này biểu thị một khối ở cực trên của thận phải. Cũng lưu ý sự biến dạng rõ của đài thận, nó là một bằng chứng nữa của khối (trong trường hợp này là ung thư biểu mô tế bào thận).

Khi tháo ép, nước tiểu chứa thuốc cản quang chảy nhanh và nhiều vào các niệu quản khiến cho toàn bộ chiều dài niệu quản được thấy rõ [25]. Không nhìn thấy một đoạn niệu quản do nhu động có thể được khắc phục bằng tháo ép, và toàn bộ niệu quản đầy thuốc từ chỗ nối bể thận-niệu quản tới chỗ nối niệu quản – bàng quang có thể thấy ở một hoặc hai phim. Tồn tại một cột chất cản quang trên một vài phim có thể biểu thị sự tắc (Hình 35) hoặc nghẽn niệu quản (giãn không tắc liên quan đến viêm). Dấu hiệu này nên được diễn giải trong tình huống của các dấu hiệu xq đường tiết niệu khác. Ở mức L3, niệu quản chạy ở trên bụng cơ thắt lưng, chéo từ ngoài vào trong [36]. Trong đoạn phía trên của nó, niệu quản chạy dọc theo nửa ngoài mỏm ngang các đốt sống. Niệu quản chạy xuống dưới và bắt chéo bó mạch chậu, bên phải cao hơn bên trái một ít. Tại vị trí bắt chéo mạch chậu, niệu quản hơi trệch vào trong. Khi đã ở trong khung chậu, niệu quản song song với bờ trong của của xương chậu cho đến chỗ đổ vào bàng quang ở đoạn nối niệu quản-bàng quang. Chệch vào trong của niệu quản nên được cân nhắc đến khi nó đè nên trên các cuống sống cùng bên [25,36,37]. Điểm đặc trưng hơn nếu niệu quản được thấy phía trong các cuống sống. Sự phân cách của các niệu quản dưới 5cm cũng được dùng làm một tiêu chuẩn của sự chệch vào trong. Theo nguyên tắc chung, sự chệch sang bên nên được xét tới khi niệu quản nằm cách các đỉnh mỏm ngang hơn 1cm, nhưng luôn so sánh với niệu quản đối bên (Hình 36). Bất cứ sự thay đổi đột ngột nào trên đường đi của niệu quản cũng yêu cầu giải thích (Hình 37). Một số trường hợp chệch niệu quản là đặc trưng (Hình 38) [25,31,36], trong khi một số trường hợp khác cho dù chúng tạo ra các hình ảnh xq gây chú ý thì lại là các biến đổi bình thường (Hình 39). Bởi vì niệu quản có tính di động cao, xác định ý nghĩa của chệch niệu quản bắt gặp trên xq đường tiết niệu thường yêu cầu các phương pháp tạo ảnh cắt ngang.

chup uiv - hinh 35

Hình 35. Giãn hệ thống góp. Phim xq đường tiết niệu 15 phút cho thấy cột thuốc cản quang từ chỗ nối bể thận-niệu quản tới chỗ nối niệu quản-bàng quang bên phải, dấu hiệu đó phối hợp với giãn nhẹ hệ thống góp. Một sỏi kẹt ở chỗ nối niệu quản-bàng quang. Cũng lưu ý phù ở quanh lỗ đổ vào bàng quang, bình thường nó có chiều dày < 3mm.

chup uiv - hinh 36

Hình 36. Chệch niệu quản ở một bệnh nhân đau bụng lan tỏa. Phim XQ đường tiết niệu cho thấy chệch niệu quản đoạn gần sang bên và chệch niệu quản đoạn xa vào giữa. Lưu ý các bất thường quay và vị trí của hai thận. Bàng quang có hình quả lê do bệnh chuỗi hạch bạch huyết sau phúc mạc và chuỗi hạch chậu. Lách to gây đẩy thận trái xuống dưới.

chup uiv - hinh 37

Hình 37. Phình động mạch. Phim xq đường tiết niệu cho thấy sự trệch vào trong đột ngột của niệu quant phải do phình động mạch chậu trong.

chup uiv - hinh 38

Hình 38. Niệu quản chạy quanh tĩnh mạch chủ dưới (circumcaval ureter). Phim xq đường tiết niệu cho thấy đoạn gần của niệu quản phải hình chữ J đảo ngược, một dấu hiệu đặc trưng của circumcaval ureter. Trong trường hợp này còn thấy ứ nước thận niệu quản mức độ vừa.

chup uiv - hinh 39

Hình 39. Phì đại cơ thắt lưng. Phim xq đường tiết niệu cho thấy đoạn xa các niệu quản trệch vào trong và thẳng. Lưu ý sự to ra của các cơ thắt lưng. Cũng có sự trệch nhẹ của trục thận phải và sự chuyển tiếp đột ngột đoạn niệu quản giữa trái ở trên bụng cơ thắt lưng. Dấu hiệu này là điển hình của vị trí niệu quản ở các bệnh nhân phì đại cơ thắt lưng.

Đường kính niệu quản vượt quá 8mm được một số tác giả cho là tiêu chuẩn của giãn [25]. Nói chung, sự không cân xứng của đường kính niệu quản là một dấu hiệu có ý nghĩa hơn. Trong tiến triển sớm của nó, tắc niệu quản mức cao có thể chỉ phối hợp với giãn niệu quản tối thiểu. Các dạng tắc mạn tính và các bệnh niệu quản mạn tính phối hợp điển hình với giãn niệu quản mức độ lớn hơn (Hình 40, 41). Giãn không tắc có thể xảy ra do kết quả của dòng nước tiểu lưu lượng cao (tăng bài niệu, đái tháo nhạt), trào ngược, hoặc các bệnh viêm.

chup uiv - hinh 40

Hình 40. Tắc niệu quản do túi giãn niệu quản (thoát vị niệu quản –ureterocele) thẳng. Phim xq đường tiết niệu cho thấy hình ‘đầu rắn màng bành’ trong bàng quang. Đôi khi, một túi giãn niệu quản có thể gây tắc, như trong trường hợp này, niệu quản giãn to, hình cột, và giãn hệ thống góp.

chup uiv - hinh 41

Hình 41. Niệu quản to nguyên phát (primary megaureter). Phim xq đường tiết niệu chụp muộn cho thấy hẹp thuôn dần ở chỗ nối niệu quản –bàng quang (mũi tên) với giãn 1/3 dưới niệu quản, đường tiết niệu phía trên giãn ít hơn. Dấu hiệu này là điển hình của niệu quản to nguyên phát, nhưng các nguyên nhân khác gây tắc cũng nên được loại trừ bằng soi bàng quang.

Hiểu biết rõ về các hình thái của nhu động, các vùng hẹp giải phẫu bao gồm chỗ nối bể thận-niệu quản và chỗ nối niệu quản-bàng quang, và chỗ bắt chéo mạch chậu là then chốt để chẩn đoán chính xác bệnh niệu quản.

Các vết ấn của tĩnh mạch tuyến sinh dục có thể trở nên khá rõ ở phụ nữ. Các nguyên nhân khác của hẹp niệu quản thường được phân loại bên ngoài hoặc thuộc thành niệu quản (Hình 42, 43). Khuyết thuốc ở niệu quản có thể có một hoặc nhiều và thường có thể quy cho là các nguyên nhân bên ngoài, thuộc thành hoặc trong lòng (Hình 44). Nên chú ý toàn bộ bề mặt lòng niệu quản, đặc biệt ở các bệnh nhân đái máu (Hình 45).

chup uiv - hinh 42

Hình 42. Hẹp từ ngoài do mạch máu ở một bệnh nhân mới đẻ. Phim XQ đường tiết niệu cho thấy các vết lõm (“khía” niệu quản) dọc theo mặt trong và mặt ngoài 1/3 trên niệu qủan trái (các mũi tên). Trong trường hợp này, các dấu hiệu được cho là do tĩnh mạch sinh dục giãn.

chup uiv - hinh 43

Hình 43. Giả túi thừa niệu quản. Một vùng hẹp không thay đổi ở đoạn xa niệu quản được phát biện trên phim XQ đường tiết niệu. Phim chếch bộc lộ rõ vùng hẹp đó phối hợp với các túi nhỏ lồi ra ngoài (mũi tên). Dấu hiệu này phù hợp với giả túi thừa niệu quản, nó liên quan tới tăng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp, đặc biệt ở bàng quang.

chup uiv - hinh 44

Hình 44. Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp. Phim XQ đường tiết niệu cho thấy nhiều khuyết thuốc ở bể thận và niệu quản trái. Lưu ý hình “ly”-“goblet” của chất cản quang ở bên dưới khuyết thuốc thấp nhất (mũi tên). Dấu hiệu này điển hình của các tổn thương phát triển chậm vào lòng niệu quản. Nhiều ung thử biểu mô đã được khẳng định trong trường hợp này.

chup uiv - hinh 45a
45a

Hình 45a. U niệu quản ở một bệnh nhân có đái máu vi thể dai dẳng. (a) Trên phim xq đường tiết niệu, không thấy một phần của niệu quản. Lưu ý, không có dấu hiệu tắc nghẽn đoạn gần.

chup uiv - hinh 45b
45b

Hình 45b. (b) Phim chiếu dòng chảy bộc lộ một khuyết thuốc ở trong lòng (mũi tên). Bệnh được chứng minh là một ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp.

Khoảng 15-30 phút sau tiêm thuốc cản quang, bàng quang thường đầy thuốc, và một phim sơ bộ 15 phút có thể đủ để đánh giá. Nếu bàng quang chưa đủ căng, các phim chụp bàng quang muộn có thể cần thiết. Khi bàng quang căng, khối thuốc cản quang trong lòng có bờ tròn, nhẵn và thành bàng quang trở nên kém rõ (Hình 46, 47). Vị trí giải phẫu của bàng quang trong khung chậu nên được đánh giá. Bởi vì bàng quang chỉ bị cột ở mặt thấp nhất của khung chậu, nên vị trí và hình dạng của nó có thể bị biến dạng bởi các khối và các tiến triển bệnh lý khác (Hình 48-50). Dày thành bàng quang và khối chất cản quang không đều phối hợp với khuyết thuốc ở đáy bàng quang là các thay đổi điển hình của tắc nghẽn dòng chảy bàng quang do bệnh lý tiền liệt tuyến (Hình 51, 52) [38]. Các biến dạng bờ do hình thành túi thừa hoặc hốc cũng có thể thấy. Mặc dù hình ảnh của bàng quang đầy thuốc cản quang kém nhậy so với soi bàng quang trong đánh giá các khối u bàng quang, các khảo sát phát hiện khuyết thuốc cũng nên được tiến hành thường xuyên (Hình 53). Các phim đầy thuốc sớm sau đái có thể là chuỗi phim nhạy nhất để đánh giá khuyết thuốc (Hình 54) [27]. Các phim chếch cũng hữu ích để đảm bảo rằng các hình khuyết thuốc không liên quan tới ruột chướng khí khi trên phim trước sau chúng lồi vào bàng quang. Các phim sau đái cũng hữu ích trong đánh giá các bệnh nhân có giãn đường tiết niệu cao. Sự tồn tại của giãn trên phim sau đái gợi ý tắc nghẽn cố định, trong khi sự giảm sức ép của đường tiết niệu trên thường biểu thị căng sinh lý. Phim sau đái cũng hữu ích trong đánh giá thể tích nước tiểu tồn dư khi nó được chụp ngay sau đái và bàng quang trống hoàn toàn.

chup uiv - hinh 46

Hình 46. Viêm bàng quang chảy máu. Phim bàng quang cho thấy chất cản quang có bờ không đều và chia thành múi. Độ dày bàng quang cũng có thể được đánh giá.

chup uiv - hinh 47

Hình 47. Nhiều túi thừa bàng quang ở một bệnh nhân có bàng quang thần kinh. Phim bàng quang cho thấy rất nhiều túi thừa bàng quang kết hợp với dày thành và bờ khối thuốc không đều. Đầu sonde (mũi tên) tạo ra hình khuyết thuốc.

chup uiv - hinh 48

Hình 48. Nang buồng trứng ở bệnh nhân đau hạ vị phải đã được cắt tử cung. Phim bàng quang chếch cho thấy vết ấn nhẵn, không thay đổi ở thành sau phải bàng quang (các mũi tên). Dấu hiệu này đã được chứng minh, bệnh nhân có nang buồng trứng phải chảy máu.

chup uiv - hinh 49

Hình 49. Chứng tích mỡ tiểu khung. Phim XQ đường tiết niệu cho thấy các niệu quản trệch vào trong và bàng quang biến dạng kết hợp với quá sáng ở tiểu khung. Các dấu hiệu này biểu thị chứng tích mỡ tiểu khung.

chup uiv - hinh 50

Hình 50. Khối máu tụ ở một bệnh nhân chấn thương khung chậu. Phim xq đường tiết niệu cho thấy bàng bàng hình quả lê nho cao từ tiểu khung và éo dài lên trên do máu tụ trong tiểu khung. Lưu ý khuyết thuốc lớn trong bàng quang do máu cục.

chup uiv - 51

Hình 51. Tiền liệt tuyến phì đại. Phim bàng quang cho thấy khuyết thuốc ở đáy bàng quang (mũi tên) phối hợp với dày thành và các hốc. Các hốc là biểu hiện sớm của thoát vị niêm mạc (thường chiều rộng bằng chiều cao) xuyên qua các thớ cơ bàng quang do tắc nghẽn dòng chảy bàng quang. Các dấu hiệu này là điển hình của các thay đổi trong tắc nghẽn dòng chảy do phì đại tiền liệt tuyến.

chup uiv - 52

Hình 52. Khối âm đạo. Phim bàng quang cho thấy khuyết thuốc ở đáy bàng quang (đầu mũi tên) tương tự với hình thấy ở nam giới có bệnh tiền liệt tuyến. Trong trường hợp này, khuyết thuốc liên quan đến khối thành trước âm đạo. Lưu ý vết ấn của tử cung ở mặt trên của bàng quang.

chup uiv - 53

Hình 53. Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp của bàng quang. Phim bàng quang cho thấy một khuyết thuốc với hình nhú dọc theo thành phải bàng quang (mũi tên). Lưu ý sự phân bố không đều của chất cản quang kết hợp với hình khuyết (“dấu hiệu chấm”-“stipple sign”).

chup uiv - 54a

Hình 54a. Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp. (a) Phim XQ đường tiết niệu thì muộn cho thấy chất cản quang nồng độ cao trong bàng quang. Hoặc có khuyết thuốc hoặc ruột chướng khí đè vào mặt trái của bàng quang.

chup uiv - 54b

Hình 54b. Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp. (b) Phim sau đi đái cho thấy một khuyết thuốc do ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp ở mặt trái của bàng quang (mũi tên). Dấu hiệu này hầu như không nhìn thấy trên các phim sớm.

Kết luận

Chụp UIV đúng cách cho phép nhìn thấy rõ từng đoạn liên tiếp của đường tiết niệu, cung cấp các chi tiết giải phẫu của hệ thống tiết niệu tốt hơn khả năng hiện nay của một số phương thức chẩn đoán hình ảnh khác. Để đạt được kết quả đó cần phải có kỹ thuật tốt, hiểu biết về những hạn chế của phương pháp, và tuân thủ các qui tắc cơ bản của đọc phim. Khả năng tạo mối tương quan giữa những dấu hiệu UIV với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác vẫn là một kỹ năng quan trọng cho đến khi có kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh đường tiết niệu “toàn thể” lý tưởng.

Tham khảo
  1. Amis ES Jr. Epitaph for the urogram (editorial). Radiology 1999; 213:639–640.
  2. Becker JA, Pollack HM,McClennan BL. Urography survives (letter). Radiology 2001; 218:299–300.
  3. Assi Z, Platt JF, Francis IR, Cohan RH, Korobkin M. Sensitivity of CT scout radiography and abdominal radiography for revealing ureteral calculi on helical CT: implications for radiologic followup. AJR Am J Roentgenol 2000; 175:333–337.
  4. Lalli AF. Tailored urologic imaging. Chicago, Ill: Year BookMedical, 1980.
  5. Pollack HM. Some limitations and pitfalls of excretory urography. J Urol 1976; 116:537–543.
  6. Hattery RR,Williamson B Jr, Hartman GW, LeRoy AJ, Witten DM. Intravenous urographic technique. Radiology 1988; 167:593–599.
  7. Friedenberg RM, Harris RD. Excretory urography in the adult. In: Pollack HM,McClennan BL, Dyer R, Kenney PJ, eds. Clinical urography. 2nd ed. Philadelphia, Pa: Saunders, 2000; 147–257.
  8. Dunnick NR, Sandler CM, Newhouse JH, Amis ES Jr. Textbook of uroradiology. 3rd ed. Philadelphia, Pa: LippincottWilliams &Wilkins, 2001.
  9. Amis ES Jr. Excretory urography. In: Taveras JM, Ferrucci JT, eds. Radiology: diagnosis-imaging- intervention. Vol 4. Philadelphia, Pa: Lippincott-Raven, 1997; 1–12.
  10. Zagoria RJ, Donati DL, ChenMYM, Gelfand DW, Ott DJ, Dyer RB. Cost-effective filming sequence for intravenous urography. SouthMed J 1994; 87:899–901.
  11. Rhodes RA, Fried AM, Lorman JG, Kryscio RJ. Tomographic levels for intravenous urography: CT-determined guidelines. Radiology 1987; 163: 673–675.
  12. ChenMY, Gelfand DW, Spangler K, Dyer RB, Zagoria RJ, Ott DJ. Locating the kidneys on CT to guide nephrotomography. Radiol Technol 1997;68:329–331.
  13. Hattery RR,Williamson B Jr, Hartman GW. Urinary tract tomography. Radiol Clin North Am 1976; 14:23–49.
  14. Zagoria RJ, Tung GA. Genitourinary radiology: the requisites. St Louis,Mo:Mosby–Year Book, 1997.
  15. Katzberg RW. Iodinated contrast media for urological imaging. In: Pollack HM, McClennan, Dyer R, Kenney PJ, eds. Clincial urography. 2nd ed. Philadelphia, Pa: Saunders, 2000; 19–66.
  16. Katzberg RW. Urography into the 21st century: new contrast media, renal handling, imaging characteristics, and nephrotoxicity. Radiology 1997;204:297–312.
  17. Saxton HM. Urography. Br J Radiol 1969; 42: 321–346.
  18. Dawson P. Intravenous urography revisited. Br J Urol 1990; 66:561–567.
  19. Newhouse JH, Pfister RC. The nephrogram. Radiol Clin North Am 1979; 17:213–226.
  20. Daughtridge TG. Ureteral compression device for excretory urography. Am J Roentgenol Radium Ther Nucl Med 1965; 95:431–438.
  21. Mawhinney RR, Gregson RHS. Is ureteric compression still necessary? Clin Radiol 1987; 38: 179–180.
  22. Pfister RC, Shea TE. Nephrotomography: performance and interpretation. Radiol Clin North Am 1971; 9:41–62.
  23. Hughes TH, Hine AL. The most advantageous timing of external ureteric compression during intravenous urography. Br J Radiol 1991; 64: 314–317.
  24. Lowe LH, Zagoria RJ. Fluoroscopic evaluation of the ureters during intravenous urography. South Med J 1994; 87:627–630.
  25. Pfister RC, Newhouse JH. Radiology of ureter. Urology 1978; 12:15–39.
  26. Kowalchuk RM, BannerMP, Ramchandani P, Forman HP. Efficacy of prone positioning during intravenous urography in patients with hematuria or urothelial tumor but no obstruction. Acad Radiol 1998; 5:415–422.
  27. Hillman BJ, SilvertM, Cook G, et al. Recognition of bladder tumors by excretory urography. Radiology 1981; 138:319–323.
  28. Moell H. Size of normal kidneys. Acta Radiol 1956; 46:640–645.
  29. Simon AL. Normal renal size: an absolute criterion. Am J Roentgenol Radium Ther NuclMed 1964; 92:270–272.
  30. Currarino G. Roentgenographic estimation of kidney size in normal individuals with emphasis on children. Am J Roentgenol Radium Ther Nucl Med 1965; 93:464–466.
  31. Davidson AJ, Hartman DS, Choyke PL,Wagner BJ. Davidson’s radiology of the kidney and genitourinary tract. 3rd ed. Philadelphia, Pa: Saunders,1999; 41–72.
  32. Felson B,MoskowitzM. Renal pseudotumors: the regenerated nodule and other lumps, bumps, and dromedary humps. Am J Roentgenol Radium Ther NuclMed 1969; 107:720–729.
  33. Saunders HS, Dyer RB. Genitourinary radiology. In: Ford KL III, Pope TL Jr. AuntMinnie’s atlas and imaging-specific diagnosis. Baltimore,Md: Williams &Wilkins, 1997; 275–308.
  34. Dyer RB,Munitz HA, Bechtold R, Choplin RH. The abnormal nephrogram. RadioGraphics 1986; 6:1039–1063.
  35. KuninM. The abortive calix: variations in appearance and differential diagnosis. AJR Am J Roentgenol 1982; 139:931–934.
  36. Cunat JS, Goldman SM. Extrinsic displacement of the ureter. Semin Roentgenol 1986; 21:188– 200.
  37. Bree RL, Green B, Keiller DL, Genet EF.Medial deviation of the ureters secondary to psoas muscle hypertrophy. Radiology 1976; 118:691–695.
  38. Bundrick TJ, Katz PG. Excretory urography in patients with prostatism. AJR Am J Roentgenol 1986; 147:957–959.

Tải bản gốc

  • Bản gốc PDF: Intravenous Urography: Technique and Interpretation → Tải về
  • Tác giả: Dyer RB, Chen MY, Zagoria RJ
  • Nguồn: Radiographics July 2001 21:799-824. DOI: 10.1148/radiographics.21.4.g01jl26799

Trang web đang upload liên tục các video bài giảng và tài liệu chẩn đoán hình ảnh. Để nhận thông báo về các bài viết mới nhất, vui lòng đăng ký Nhận bài viết mới và theo dõi Kênh Youtube

Tải thêm Kiến thức Y khoa

Check Also

Các tổn thương giả u não do bệnh lý mạch máu trong chẩn đoán hình ảnh

U não là một bệnh lý quan trọng trong chẩn đoán hình ảnh thần kinh. Phân biệt giữa các khố…