Bản dịch phần II Key CT Findings của sách CT of the Acute Abdomen đề cập đến 32 dấu hiệu trên CT bụng với các đặc điểm hình ảnh, giải thích cơ chế tạo nên hình ảnh và nguyên nhân của dấu hiệu đó. Đây là các dấu hiệu gợi ý chẩn đoán, chẩn đoán phân biệt trên CT bụng và rất hữu ích trong thực hành lâm sàng.
Bản gốc: CT of the Acute Abdomen (Springer, 2011), Part II: Elementary CT Findings – Key CT Findings (Eric Delabrousse)
Bản dịch: Các dấu hiệu quan trọng trên cắt lớp vi tính bụng
Người dịch: BS Nguyễn Anh Huy
(*) Bài viết còn một số lỗi nhỏ, bạn đọc có thể so sánh với bản gốc chỗ nào thấy “lấn cấn”.
Bài viết trong series DẤU HIỆU CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH trình bày các dấu hiệu hình ảnh gợi ý hoặc đặc hiệu trên XQ, CT, MRI, Siêu âm.
Các dấu hiệu quan trọng trên cắt lớp vi tính bụng
1 Giới thiệu
Triệu chứng học CT của đau bụng cấp vô cùng phong phú và dựa vào phân tích của cơ quan ổ bụng. Tiêu chuẩn rõ ràng, như là phần hình thái học của cơ quan, giảm hoặc tăng tỉ trọng khi tiêm thuốc cản quang, vị trí các cơ quan trong khoang bụng, là cơ sở phân tích này. Điều cũng rất quan trọng là tìm kiếm một số dấu hiệu CT quan trọng tương ứng với những thay đổi cấp tính của đặc điểm bình thường và thường đặc hiệu. Vì vậy, việc phân tích tỉ mỉ các hình ảnh CT và kiến thức tốt về những dấu hiệu CT quan trọng có thể cho phép chẩn đoán CT trong đau bụng cấp.
2 Dấu hiệu đàn xếp (Accordion Sign)
2.1 Đặc điểm
Dấu hiệu đàn xếp là một phát hiện có thể được nhìn thấy trên CT scan ở những bệnh nhân uống thuốc cản quang. Ban đầu nó được định nghĩa là nếp phù nề xen kẽ ngăn cách bởi các đường lằn ngang niêm mạc đầy chất cản quang mô phỏng sự xuất hiện của một đàn xếp (Fishman et al 1991; O’Sullivan 1998) (Hình 1).
2.2 Ý nghĩa
Các mô mềm thành phần tỉ trọng thấp hơn trong những dấu hiệu đàn xếp thể hiện dày lên rõ rệt của ngấn nếp gấp do phù xuyên thành. Một lượng nhỏ các chất cản quang uống có thể bị mắc kẹt bên trong các khe kẽ giữa các nếp gấp ngấn dày. Các dải xen kẽ suy giảm tỉ trọng hơn và tăng tỉ trọng hơn được so sánh với nhau tạo nên xuất hiện của một đàn xếp (Fishman et al. 1991). Sự xuất hiện này có thể thay đổi phụ thuộc vào mức độ phù nề của các nếp gấp ngấn và lượng chất cản quang bị mắc kẹt giữa các nếp gấp (O’Sullivan 1998).
2.3 Nguyên nhân
2.3.1 Viêm đại tràng giả mạc
Các dấu hiệu đàn xếp đã được mô tả lần đầu tiên như một phát hiện viêm đại tràng giả mạc (Fishman et al. 1991).Trong trường hợp này, các chất cản quang đường miệng bị mắc kẹt giữa nếp gấp phù nề và màng giả dày lên ở niêm mạc đại tràng. Mức độ dày thành ruột gây ra bởi màng giả và mô phù nề đây là lý do cho tính đặc hiệu của dấu hiệu này (Ros et al. 1996).
2.3.2 Bệnh ruột khác
Đối với một số tác giả, các dấu hiệu đàn xếp là biểu hiện của chứng phù đại tràng nặng hoặc viêm, nhưng không có nguyên nhân đặc hiệu liên quan. Nó có thể liên quan đến điều kiện truyền nhiễm, viêm, hoặc thiếu máu cục bộ, và nó thậm chí có thể có mặt ở bệnh nhân phù nề thứ phát do xơ gan (Macari et al. 1999). Mặc dù họ không được xác định cụ thể là dấu hiệu đàn xếp, lồi thành ruột dày và niêm mạc đại tràng mẫu tương tự đã được ghi nhận trong nhiều báo cáo CT của viêm đại tràng từ nhân Nguyên khác (Balthazar et al 1985;. Macari et al 1999.). Khi dấu hiệu đàn xếp được xác định trong các nghiên cứu CT, nó nên được xem như là một dấu chỉ điểm của phù đại tràng trầm trọng mà chưa chắc chắn nguyên nhân. Tương quan với kết quả lâm sàng và xét nghiệm nên được thực hiện để xác định nguyên nhân chính xác.
3 Dấu hiệu mỏ chim (Beak Sign)
3.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu mỏ chim có thể được xem như một hình thoi bóp nhọn của ruột tại vị trí tắc nghẽn (Hình 2).
3.2 Ý nghĩa
Tại các vùng chuyển tiếp của một tắc ruột non cơ học, dấu hiệu mỏ chim tương ứng với nén bên ngoài của vòng ruột.
3.3 Nguyên nhân
3.1.1 Tắc ruột non do dính
Ruột tự dính với nhau không thể được xác định bằng CT. Ghi nhận một dấu mỏ chim tại vùng chuyển tiếp của tắc ruột non có thể nghĩ ngay nguyên nhân tắc do dính (Ha et al. 1993).
3.1.2 Xoắn ruột non
Trong tắc ruột non, một dấu mỏ chim kép được kết hợp với một dấu cuộn xoáy là một phát hiện CT xoắn ruột non (Balthazar et al.1992).
3.1.3 Xoắn manh tràng
Một dấu mỏ chim và một dấu hiệu cuộn xoáy được thể hiện trên CT Scan trong xoắn manh tràng (Delabrousse et al. 2007).
3.1.4 Xoắn ruột xích ma
Dấu hiệu mỏ chim và một dấu mỏ kép có thể được nhìn thấy trong xoắn ruột sigmoid và xoắn mạc treo ruột xích ma, tương ứng (Bernard et al. 2010).
3.1.5 Tắc ruột do thoát vị nghẹt
Dấu hiệu mỏ chim kép đôi khi cũng xuất hiện trong trường hợp thoát vị ngoài hay thoát vị trong (Yen et al. 2005).
4 Dấu hiệu quầng sáng ruột (Bowel Halo Sign)
4.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu quầng sáng ruột được xác định bởi sự chia thành ruột dày thành 2 lớp như hai chiếc nhẫn (quầng đôi) một vòng suy giảm màu xám bên trong được bao quanh bởi một vòng ngoài tỉ trọng cao hơn hoặc ba vòng (dấu hiệu mục tiêu) (Wittenberg et al. 2002). Dấu hiệu quầng sáng ruột hiện rõ nhất trong pha tĩnh mạch trong tiêm thuốc cản quang (Macari and Balthazar 2001) (Hình 3).
4.2 Ý nghĩa
Một quầng sáng đôi gồm vòng ngoài hình chiếc nhẫn hình khuyên đậm độ cao hơn, tương ứng với lớp áo cơ bao xung quanh vòng thứ hai suy giảm đậm độ (0-10 HU), được cho là phù nề. Trong dấu mục tiêu, các vòng bên trong và bên ngoài của tăng đậm độ được coi là niêm mạc ruột và lớp áo cơ, tương ứng, trong khi vòng giữa giảm đậm độ màu xám thể hiện phù nề được cho là lớp duới niêm mạc (Macari and Balthazar 2001). Sự tăng đậm độ bên trong và bên ngoài tương ứng với sự nặng nề của tình trạng ứ huyết.(nguồn: hinhanhykhoa.com)
4.3 Nguyên nhân
4.3.1 Bệnh Crohn
Các dấu hiệu quầng sáng đôi lần đầu tiên được báo cáo bởi Fraser et al. (1983) ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn.
4.3.2 Thiếu máu ruột
Các dấu hiệu ruột quầng (quầng sáng đôi hoặc dấu hiệu mục tiêu) cũng có thể có mặt trong thiếu máu ruột (Taourel et al. 1996).
4.3.3 Viêm loét đại tràng
Các dấu hiệu ruột quầng sáng ban đầu được mô tả với viêm loét đại tràng (Gore et al. 1996).
4.3.4 Viêm ruột nhiễm trùng
Các dấu hiệu mục tiêu cũng là một đặc điểm CT nổi bật trong viêm ruột nhiễm trùng, đặc biệt là trong viêm đại tràng giả mạc (Kawamoto et al. 1999).
4.3.5 Lupusban đỏ hệ thống
CT bụng ở bệnh nhân lupus ban đỏ có viêm mạch ổ bụng cho thấy cổ trướng và dày lên của các thành ruột, với một quầng đôi hoặc một dấu hiệu mục tiêu (Ko et al. 1997; Horton et al. 2000).
4.3.6 Tụ máu ruột
Ban đầu, CT nên được thực hiện không có thuốc cản quang, vì điều này có thể che dấu sự xuất huyết trong thành. Những phát hiện này bao gồm dày lên của thành lớn hơn 1 cm, giảm đậm độ đoạn tắc nghẽn hoặc tăng sáng, dao động 50-80 HU tùy thuộc vào thời gian từ lúc bắt đầu đến khi kiểm tra. Các dấu hiệu mục tiêu được thể hiện tốt hơn trên CT Scan tăng cường tương phản (Sorbello et al. 2007).
4.3.7 Tăng áp tĩnh mạch cửa
Các dấu hiệu ruột quầng sáng cũng đã được báo cáo như đặc điểm trong xơ gan và tăng áp TM cửa (Ormsby et al. 2007)
5 Dấu hiệu hạt cafe (Coffee Bean Sign)
5.1 Đặc điểm
Dấu hiệu cà phê là một phát hiện có thể được chẩn đoán trên CT. Ban đầu nó được xác định trên X quang bụng nằm, khu vực của tăng sáng tương tự như hình dạng của hạt cà phê. Đây là dấu hiệu thấy được trên phim X quang bụng, thường gặp nhất trong xoắn đại tràng sigma. (Messmer 1994) (Hình 4).
5.2 Ý nghĩa
Dấu hiệu hạt cà phê được xác định trên hình chụp bụng là một vùng thấu quang có hình dạng giống hạt cà phê.Khi đại tràng sigma bị tắc dạng quai kín, hơi trong đại tràng căng phồng gây ép thành hai quai ruột tạo dạng khe nứt như ở hạt cà phê, trong lúc thành bên của quai ruột giãn tạo thành bờ hạt cà phê. Xoắn ở đại tràng sigma có thể chiếm chỗ vùng chậu hoặc toàn bộ ổ bụng.Đỉnh của nó thường vượt qua đốt sống T10 và nằm bên trái hoặc phải đường giữa (Young et al. 1978; Burrel et al. 1994). Các thuật ngữ khác có thể là dấu hiệu hạt đậu, dấu hiệu đường ống trong.
5.3 Nguyên nhân
5.3.1 Xoắn đại tràng xích ma
Đây là dấu hiệu có thể dễ dàng nhận biết trong 80% trường hợp của xoắn đại tràng sigma, và thường thấy rõ dấu hiệu này trên X quang dễ hơn CT, do đó có thể thấy được hình ảnh hạt cà phê ngay trên hình Scout view (còn gọi là hình định vị) của CT trước khi xem xét thêm các tính chất khác của tổn thương. (id. Chụp phim bụng nằm ngửa) (Jones and Fazio 1989). Sự vắng mặt khí ở trực tràng có thể góp phần cho chẩn đoán (Messmer 1994).
6 Dấu hiệu cổ áo (Collar Sign)
6.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu cổ áo được định nghĩa giống như chỗ eo thắt có đậm độ giảm ở mép của cơ hoành xung quanh nội tạng thoát vị (Iochum et al. 2002). Ở bên phải, nó có thể xuất hiện như là một vết ấn lõm khu trú ở gan, dấu hiệu tinh tế dễ dàng bỏ qua ở hình ảnh axial. Các dấu hiệu cổ áo được nhìn thấy tốt hơn ở mặt phẳng sagittal và coronal (Larici et al. 2002) (Hình 5).
6.2 Ý nghĩa
Dấu hiệu cổ áo được xác định như một viền đậm độ thấp dạng thắt eo của cơ hoành quanh tạng thoát vị, có thể bị bỏ sót trên hình axial, quan sát tốt hơn trên hình sagittal và coronal.
6.3 Nguyên nhân
6.3.1 Vỡ cơ hoành
Dấu hiệu cổ áo là một dấu hiệu CT có giá trị để chẩn đoán vỡ cơ hoành trong chấn thương bụng kín, với độ nhạy 63% và độ đặc hiệu 100% (Killen et al. 1999).Các nghiên cứu khác đã báo cáo một tỷ lệ thấp hơn của 27-36% cho đặc điểm này (Demos et al. 1989; Murray et al. 1996).
7 Dấu hiệu cái lược (Comb Sign)
7.1 Đặc điểm
Dấu hiệu này quan sát được ở phía mạc treo với nhiều cấu trúc mạch máu trông như răng của một cái lược, thấy rõ trên phim CT có tiêm thuốc tương phản. (Madureira 2004) (Hình 6).
7.2 Ý nghĩa
Các động mạch cấp máu cho ruột non phân nhánh trong mạc treo như một chuỗi mạch máu nối với nhau bởi một cung mạch máu. Những nhánh động mạch thẳng (vasa recta) dài và cách nhau ở hỗng tràng nhưng ngắn và gần nhau ở hồi tràng. Khi CT biểu hiện tăng sinh mạch máu của mạc treo kèm theo dãn mạch và mạch nằm ngoằn ngoèo, các mạch thẳng nằm xa nhau sẽ tạo nên dấu hiệu cái lược. Điều này được cho là hệ quả của việc tăng tưới máu và tăng sinh mô sợi – mỡ của mạc treo quai ruột bệnh lý.
7.3 Nguyên nhân
7.3.1 Bệnh Crohn
Tăng sinh mạch máu mạc treo và dãn, xoắn mạch máu và hình ảnh nổi bật của mạch thẳng tạo dấu hiệu cái lược, sẽ gợi ý đến bệnh Crohn trước tiên (Madureira 2004). Đã có nghiên cứu cho rằng sự hiện diện rõ của cấu trúc mạch máu quanh ruột trên CT ở bệnh nhân bị bệnh Crohn gợi ý bệnh đang ở giai đoạn hoạt động, tiến triển và lan rộng (Lee và cs, 2002).
7.3.2 Bệnh ruột non khác
Dấu hiệu “comb sign” không phải là đặc trưng tuyệt đối cho bệnh Crohn, vì comb sign cũng đã được báo cáo trong các trường hợp viêm mạch do lupus, hội chứng Henoch-Schonlein, viêm đa động mạch dạng nốt, thuyên tắc mạch mạc treo, tắc ruột do thắt nghẹt… Bệnh sử, vị trí tổn thương và các dấu hiệu đi kèm sẽ giúp đưa ra chẩn đoán phân biệt.
8 Chất cản quang thoát mạch (Contrast Material Extravasation)
8.1 Đặc điểm
Chất cản quang thoát mạch được xác định bởi sự có mặt của một khu vực của các cấu trúc đậm độ cao khu trú hoặc lan tỏa so với các cấu trúc động mạch lớn liền kề được bao quanh bởi chất lỏng đậm độ cao đại diện tụ máu. Nó có thể được nhìn thấy trong một số cơ quan (Hình 7). Hoặc trong phúc mạc và khoang sau phúc mạc.
8.2 Ý nghĩa
Chất cản quang thoát mạch tương ứng với động mạch chủ động chảy máu (hơn 1 ml/phút).
8.3 Nguyên nhân
8.3.1 Chấn thương trực tiếp
Chụp xoắn ốc CT có thuốc cản quang đã được báo cáo là tiêu chuẩn vàng phương thức hình ảnh để hình dung thoát mạch động mạch sau chấn thương bụng trực tiếp (Yao et al. 2002).
8.3.2 Chảy máu dạ dày ruột
Chất cản quang thoát mạch là một phát hiện CT chính xác để phát hiện và khu trú hóa của các vị trí xuất huyết ở bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa ồ ạt cấp tính (Yoon et al. 2006) (Hình 7).
8.3.3 Vỡ lách tự phát
Chất cản quang thoát mạch được báo cáo trong một số trường hợp vỡ lách tự phát (Aoyagi et al. 2009).
8.3.4 Khối u ổ bụng xuất huyết
Các khối u trong ổ bụng, sự hiện diện của chất cản quang thoát mạch trong CT cho phép chẩn đoán chính xác và có tác động trực tiếp đối với việc ra quyết định lâm sàng (Furlan et al. 2009).
9 Dấu hiệu tạng phụ thuộc (Dependent Viscera Sign)
9.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu tạng phụ thuộc được chẩn đoán trên CT scan trong khu vực ngực bụng. Các tạng (ruột hoặc cơ quan đặc) nằm đè lên các xương sườn sau, với sự xóa phía sau góc sườn hoành (Cantwell 2006) (Hình 8).
9.2 Ý nghĩa
Khi vỡ cơ hoành trực tiếp xảy ra, sự vắng mặt của các hỗ trợ phía sau cơ hoành cho phép nội tạng giảm sức ép lên xương sườn sau. Ở bên phải, 1/3 trên của gan thường không giáp thành ngực sau khi cơ hoành nguyên vẹn. Ở phía bên trái, dạ dày và đường ruột, nằm trước lách và thường không giáp xương sườn sau khi cơ hoành nguyên vẹn. Do đó, các dấu hiệu tạng phụ thuộc được cho là có mặt ở phía bên phải nếu 1/3 trên của gan tiếp giáp với xương sườn sau và có mặt ở phía bên trái nếu dạ dày hoặc ruột tiếp giáp với xương sườn sau hoặc nằm sau để lách (Bergin et al. 2001).
9.3 Nguyên nhân
9.3.1 Vỡ cơ hoành
Các dấu hiệu nội tạng phụ thuộc là một dấu hiệu CT có giá trị đáng kể chẩn đoán CT vỡ cơ hoành trực tiếp. Trong một nghiên cứu được công bố vào năm 2001, Bergin et al. (2001) báo cáo dấu hiệu CT này có mặt ở 90% bệnh nhân bị vỡ cơ hoành trực tiếp. Trong loạt bài của họ, các dấu hiệu nội tạng phụ thuộc nhạy cảm 100% như một dấu hiệu của vỡ cơ hoành và 83% nhạy cảm với chấn thương bên phải (Bergin et al. 2001). Các dấu hiệu nội tạng phụ thuộc không có do kích thước vết thương nhỏ và vị trí thay đổi của các tạng (Larici et al. 2002).
10 Dấu hiệu sợi mỡ không cân xứng (Disproportionate Fat Stranding Sign)
10.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu sợi mỡ không cân xứng được xác định trên CT Scan là sợi dự kiến về mức độ dày thành ruột dày (Pereira et al. 2004) (Hình 9).
10.2 Ý nghĩa
Hầu hết các bệnh viêm cấp tính của đường tiêu hóa, bao gồm rối loạn nhiễm trùng, viêm, chấn thương, và thiếu máu cục bộ, đều tập trung ở thành ruột. Đối với các bệnh này, mức độ dày thành ruột thường vượt quá mức độ tích tụ mỡ liên quan. Tuy nhiên, trong một số bệnh cấp tính của đường tiêu hóa, các quá trình bệnh lý được đặc trưng ở đoạn giữa mạc treo tiếp giáp với thành ruột hơn là trong thành ruột. Trong các bệnh này, dấu hiệu sợi mỡ không cân xứng dương tính được chẩn đoán (Pereira et al. 2004).
10.3 Nguyên nhân
10.3.1 Viêm túi thừa cấp tính
Viêm túi thừa xảy ra khi cổ của một túi thừa bị làm tắc, dẫn đến viêm nhiễm, xói mòn, tạo nên thủng vi thể. Thủng vi thể dẫn đến viêm quanh đại tràng thường nghiêm trọng hơn tình trạng viêm của chính đại tràng. Trên CT, dấu hiệu phổ biến nhất trong viêm túi thừa cấp tính là sợi mỡ cạnh đại tràng. Sợi mỡ này có đặc điểm là không tương xứng với tình trạng dày thành đại tràng khu trú, tương đối nhẹ.
10.3.2 Viêm ruột thừa cấp
Nhìn thấy trực tiếp ruột thừa giãn chứa đầy chất lỏng là phát hiện CT cụ thể nhất của viêm ruột thừa (Rao et al. 1997; Benjaminov et al. 2002). Tuy nhiên, dấu hiệu CT gián tiếp khác thường hữu ích. Trong viêm ruột thừa cấp tính, xung quanh ruột thừa có sợi mỡ thường nhẹ đến trung bình, nhưng nó có thể nặng. Phát hiện sợ mỡ rõ ở phần dưới bên phải, ngay cả trong trường hợp không nhìn thấy ruột thừa, manh tràng, hoặc dày lên hồi tràng, đã được báo cáo là hữu ích trong chẩn đoán viêm ruột thừa (Checkoff et al. 2002).
10.3.3 Viêm phần phụ mạc nối
Phần phụ mạc nối thường không nhìn thấy được trên phim chụp CT. Các dấu hiệu CT của viêm túi thừa mạc nối thường có tính chất chẩn đoán (Torres et al 1994; Rao et al 1997). Một khối mỡ hình bầu dục cạnh đại tràng đại diện cho phần phụ bị viêm hoặc nhồi máu, được bao quanh bởi một vành tăng đậm độ có giới hạn rõ và dải mỡ cạnh đại tràng rất quan trọng, là một đặc điểm bệnh lý. Những thay đổi viêm cạnh đại tràng này thường nghiêm trọng hơn một cách không tương xứng so với tình trạng dày lên do phản ứng cục bộ nhẹ của thành đại tràng lân cận.
10.3.4 Nhồi máu từng đoạn mạc nối
Trên CT scan, nhồi máu từng đoạn mạc nối, thứ phát sau huyết khối tĩnh mạch mạc nối, xuất hiện dưới dạng một khối mỡ lớn có tỷ trọng cao tập trung ở mạc nối (Puylaert 1992; Van Bresla Vriesman et al. 1999). Thành ruột phản ứng dày lên có thể xảy ra, nhưng quá trình viêm ở mạc nối nghiêm trọng hơn nhiều.
11 Dấu hiệu vòng quấn quanh động mạch chủ (Draped Aorta Sign)
11.1 Đặc điểm
Dấu hiệu vòng quấn quanh động mạch chủ là một dấu hiệu CT tương ứng với vòng quấn sát bên cột sống của phình động mạch quanh thân đốt sống (Halliday and Al-Kutoubi 1996) (Hình 10).
11.2 Ý nghĩa
Người ta tin rằng có ít máu thoát mạch từ phình động mạch chủ bụng bị rò rỉ là vào cơ thắt lưng chậu, và tiếp theo cân mạc thắt lưng chậu, vào khoang cạnh thận sau (Hopper et al. 1985). Hầu hết các trường hợp bị rò rỉ, do đó thấy xuất huyết quanh động mạch ở phía sau (Gale et al. 1986), và trong trường hợp xuất huyết ồ ạt, các khoang cạnh thận sau và khoang quanh thận là những vị trí liên quan nhiều nhất (Morehouse et al. 1992; White et al. 1992; Siegel and Cohan 1994). Các dấu hiệu vòng quấn quanh động mạch chủ trên CT scan đại diện cho giai đoạn đầu trong chuỗi này, nơi xuất huyết được chứa về phía trước bởi hợp lưu của cân mạc thận trước và gốc của mạc treo lưng và đang bắt đầu vượt qua phía sau về phía cơ thắt lưng chậu (Halliday and Al-Kutoubi 1996).
11.3 Nguyên nhân
11.3.1 Rò rỉ phình động mạch chủ
Mặc dù CT có thể dễ dàng xác định được một lỗ rò lớn, nhưng một lỗ rò nhỏ hơn có thể khó chẩn đoán một cách chắc chắn (Gale et al. 1986). Điều quan trọng là những trường hợp như vậy cần được xác định vì các đặc điểm lâm sàng có thể gây nhầm lẫn, và mặc dù tình trạng rò của bệnh nhân có thể ổn định trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm (Rosenthal et al. 1986; Nakagawa et al. 1990), nhưng xuất huyết ồ ạt có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trên CT, dấu hiệu vòng quấn quanh động mạch chủ thể hiện rõ ràng sự thiếu hụt của thành động mạch chủ và chứa chất rò rỉ (Halliday và Al-Kutoubi 1996).
12 Dấu hiệu quầng sáng mỡ (Fat Halo Sign)
12.1 Đặc điểm
Dấu hiệu quầng sáng mỡ là một dấu hiệu CT được xác định bởi sự hiện diện của dày thành ruột thể hiện với ba lớp: lớp bên trong và lớp bên ngoài tỉ trọng của mô mềm, lớp giữa có tỉ trọng chất béo (-10 đến -50 HU) (Wittenberg et al. 2002; Ahualli 2007)(Hình 11).
12.2 Ý nghĩa
Lớp bên trong có tỉ trọng của mô mềm đại diện cho niêm mạc ruột, trong khi lớp có tỉ trọng âm là kết quả của sự mở rộng và xâm nhập chất béo (thâm nhiễm mỡ) của lớp dưới niêm mạc. Các lớp bên ngoài có tỉ trọng mô mềm thể hiện áo cơ và thanh mạc (Philpotts et al. 1994; Gore et al. 1996). Dấu hiệu quầng sáng mỡ có thể được mô tả trên CT Scan không tiêm thuốc cản quang do có sự khác biệt rõ rệt về tỉ trọng của mô. Tuy nhiên, tỉ trọng các lớp khác nhau có thể được đánh giá cao trong pha tĩnh mạch cửa trong tiêm thuốc cản quang (Macari và Balthazar 2001).
12.3 Nguyên nhân
12.3.1 Viêm loét đại tràng
Dấu hiệu quầng sáng mỡ đã được mô tả thường xuất hiện ở những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột (Jones et al. 1986; Gore et al. 1996.). Trong viêm loét đại tràng, dấu hiệu này chỉ xảy ra trong ruột già. Dấu hiệu quầng sáng mỡ hiện diện trong 60% bệnh nhân bị viêm loét đại tràng (Philpotts et al. 1994).
12.3.2 Bệnh Crohn
Khi dấu quầng sáng mỡ được nhìn thấy trong cả ruột non và ruột già, nó được coi là bằng chứng của bệnh Crohn. Tuy nhiên, các dấu hiệu quầng sáng mỡ được nhìn thấy trong ít hơn 10% bệnh nhân bị bệnh Crohn (Philpotts et al. 1994).
12.3.3 Bệnh Graft-Versus-Host
Bệnh Graft-versus-host đã được báo cáo là một bệnh cấp tính mà có thể đó là nguyên nhân của dấu hiệu quầng sáng mỡ (Muldowney et al. 1995).
12.3.4 Viêm ruột bức xạ mãn tính
Sự hiện diện của chất béo trong lớp dưới niêm mạc của ruột non là một phát hiện có thể được chứng minh ở những bệnh nhân xạ trị (Chen et al. 2003).
12.3.5 Viêm ruột sau liệu pháp tế bào
Dấu hiệu quầng sáng mỡ cũng đã được báo cáo như là một hệ quả của liệu pháp tế bào (Muldowney et al. 1995).
12.3.6 Biến thể bình thường
Chất béo trong thành có thể tồn tại trong cả 2 chỗ hồi tràng đoạn cuối và đại tràng là một biến thể bình thường ở những bệnh nhân không có triệu chứng của bệnh đường tiêu hóa hoặc không có tiền sử bệnh đường tiêu hóa. Các lớp mỡ trong thành bình thường nói chung là mỏng hơn so với lớp chất béo được thấy với bệnh viêm ruột. Harisingjhani et al. (2003) ghi nhận như một sự xuất hiện bình thường với 21% trong 100 bệnh nhân không có tiền sử bệnh viêm ruột.
13 Dấu hiệu khuyết lõm mỡ (Fat Notch Sign)
13.1 Đặc điểm
Dấu hiệu khuyết lõm mỡ là một dấu hiệu CT mới được mô tả, nó được xác định bởi sự hiện diện của một khuyết lõm mỡ bên trên thành ruột ở vùng chuyển tiếp trong tắc ruột non (Delabrousse et al. 2009) (Hình 12).
13.2 Ý nghĩa
Trong tắc ruột non do dính, dấu hiệu khuyết lõm mỡ tương ứng với ép từ bên ngoài ruột do vòng thắt tại vùng chuyển tiếp (Delabrousse et al. 2009).
13.3 Chẩn đoán
13.3.1 Tắc ruột non do dải dính
Mặc dù CT không thể xác định được các dải dính, nhưng nhận biết các dấu hiệu trên CT gợi ý đến một dải dính ngoài lòng ruột đang chèn ép ruột ở vùng chuyển tiếp, đây là nơi tự nhiên để tìm kiếm manh mối về nguyên nhân gây tắc ruột non (Ha et al. 1993), có thể tăng khả năng chẩn đoán tắc ruột non do dải dính của bác sĩ chẩn đoán hình ảnh (Petrovic et al. 2006). Trong tắc ruột non đơn giản, việc tập trung tìm kiếm dấu hiệu khuyết lõm mỡ cho độ nhạy tốt (61%) và độ đặc hiệu tuyệt vời (100%) trong chẩn đoán các dải dính (Delabrousse et al. 2009).
14 Dấu hiệu xẹp tĩnh mạch chủ dưới (Flat Vena Cava Sign)
14.1 Đặc điểm
Dấu hiệu xẹp tĩnh mạch chủ dưới trên CT đầu tiên được định nghĩa là tĩnh mạch chủ dưới dẹt trên ít nhất ba lát cắt 1 cm liên tiếp (Jeffrey và Federle 1988). Eisenstat et al (2002) định nghĩa xẹp tĩnh mạch chủ dưới có đường kính trước sau tối đa với đường kính ngang tối đa là 3:1 hoặc hơn, trong khi Mirvis et al (1994) định nghĩa xẹp tĩnh mạch chủ nhỏ hơn 9 mm đường kính trước sau tối đa của tĩnh mạch thận (Hình 13).
14.2 Ý nghĩa
Trong chấn thương trực tiếp, xẹp tĩnh mạch chủ dưới ở những bệnh nhân với giảm thể tích tuần hoàn rất có thể là do giảm sự trở lại đàn hồi tĩnh mạch. Trong một số trường hợp, các biểu hiện của xẹp tĩnh mạch chủ dưới có thể đi trước các phát hiện lâm sàng của sốc (Jeffrey and Federle 1988).
Một dấu hiệu xẹp tĩnh mạch chủ dưới liên quan giảm kích thướt của động mạch chủ, đánh dấu khuếch tán đầy chất lỏng trong ruột, tập trung dịch trong màng bụng, tỉ trọng tăng bất thường của thành ruột, thận và tuyến tụy cũng đã được báo cáo để xác định giảm truyền dịch phức tạp ở trẻ em (Taylor et al. 1987). Trong thực hành lâm sàng, sự hiện diện của xẹp tĩnh mạch chủ dưới trong chấn thương trực tiếp có thể được coi là bằng chứng của dấu hiệu giảm thể tích tuần hoàn do mất máu lớn và cần phải theo dõi huyết động thận trọng và áp lực tĩnh mạch trung tâm.
Ngược lại với những bệnh nhân bị chấn thương trực tiếp, xẹp tĩnh mạch chủ có thể được nhìn thấy ở những bệnh nhân lưu lượng máu bình thường và huyết áp bình thường ở người lớn. Một vài giải thích có thể được đề xuất: một biến thể bình thường, đặc biệt là ở phụ nữ lớn tuổi, hoặc một sự thay đổi mạch máu hoặc các mô liên kết trong thành TM chủ xảy ra khi lão hóa; sự phân phối lại lượng máu mà không biểu hiện như giảm thể tích tuần hoàn lâm sàng; và sự thay đổi trong hình dạng TM chủ và thể tích khí lưu thông, áp lực trong ổ bụng, và vị trí của bệnh nhân (Eisenstat et al. 2002).
14.3 Nguyên nhân
14.3.1 Giảm thể tích máu lưu thông
Sự hiện diện của dấu hiệu xẹp tĩnh mạch chủ là một dấu hiệu quan trọng của giảm thể tích tuần hoàn do mất máu hiều (Jeffrey and Federle 1988).
14.3.2 Biến thể của tĩnh mạch chủ dưới
Sự xuất hiện của dấu hiệu xẹp TM chủ dưới thấy phổ biến ở phụ nữa và bệnh nhân già (Eisenstat etal. 2002)
15 Tràn máu phúc mạc (Hemoperitoneum)
15.1 Đặc điểm
Trán máu phúc mạc được định nghĩa là sự tăng tỉ trọng dịch (35–60HU) trong khoang phúc mạc. Tuy nhiên tỉ trong có thể thay đổi rất đa dạng phụ thuộc vào tuổi, độ xuất huyết và vị trí xuất huyết (Lubner et al. 2007) (Hình 14).
15.2 Ý nghĩa
Sự xuất hiện tràn máu phúc mạc nghĩa là chảy máu trong phúc mạc.
15.3 Nguyên nhân
15.3.1 Chấn thương bụng trực tiếp
Gan (Shanmuganathan and Mirvis 1998), lách (Becker et al. 1994), ruột, mạc treo (Breen et al. 1997) là những cơ quan ảnh hưởng nhiều trong chấn thương bụng.
15.3.2 Thai ngoài tử cung
Vỡ thai ngoài tử cung nên được chẩn đoán đầu tiên được tìm kiếm ở một bệnh nhân nữ trẻ với những cơn đau vùng chậu và tràn máu phúc mạc lớn trên CT Scan (Coulier et al. 2008).
15.3.3 Tràn máu ổ bụng do vỡ khối u
Ung thư biểu mô tế bào gan vỡ (Choi 2001) và u tuyến là những khối u gây xuất huyết trong ổ bụng.
15.3.4 Vỡ lách tự phát
Vỡ lách tự phát hiếm khi xảy ra và nó xảy ra phổ biến trong trường hợp lách bị ảnh hưởng bởi các bệnh về huyết học, ung thư, nhiễm trùng, biến chứng nang giả tụy (Torricelli et al. 2001).
15.3.5 Vỡ phình động mạch lách
Đây là một trường hợp cấp cứu thứ phát sau viêm tụy cấp (Brunet and Greenberg 1991).
16 Tràn máu sau phúc mạc (Hemoretroperitoneum)
16.1 Đặc điểm
Tràn máu sau phúc mạc được định nghĩa là xuất hiện dịch có tỉ trọng từ (35–60HU) ở sau khoang phúc mạc (Hình 15).
16.2 Ý nghĩa
Sự xuất hiện của tràn máu sau phúc mạc chứng tỏ có chảy máu sau phúc mạc.
16.3 Nguyên nhân
16.3.1 Vỡ phình động mạch chủ bụng
Vỡ phình động mạch chủ bụng là nguyên nhân phổ biến của tràn máu sau phúc mạc (Schwartz et al. 2007).
16.3.2 Chấn thương sau phúc mạc trực tiếp
Trong chấn thương phúc mạc sau trự tiếp làm tổn thương tụy (Venkatesh and Wan 2008), thận (Harris et al. 2001), và cột sống có thể dẫn tới chảy máu hoặc tụ máu sau phúc mạc nghiêm trọng.
16.3.3 Xuất huyết sau phúc mạc tự phát
Điều kiện chính liên quan đến xuất huyết sau phúc mạc tự phát là tụ máu cơ thắt lưng chậu ở bệnh nhân điều trị thuốc chống đông (Lenchick et al. 1994).
16.3.4 Viêm tụy hoại tử
Xuất huyết sau phúc mạc là một biến chứng hiếm gặp nhưng đe dọa tính mạng trong viêm tụy cấp nặng (Stroud et al. 1981).
17 Dấu hiệu lưỡi liềm tăng sáng (High-Attenuating Crescent Sign)
17.1 Đặc điểm
Trên CT không cản quang, các tiêu chí cho dấu hiệu lưỡi liềm tăng sáng dương tính là sự hiện diện của khu vực ngoại vi có hình lưỡi liềm có tỉ trọng cao hơn so với trong lòng động mạch chủ bụng nhưng tỉ trọng thấp hơn nếu thành vôi hóa. Trên CT Scan tăng cường tương phản, tiêu chí là sự hiện diện của một khu vực hình lưỡi liềm có tỉ trọng cao hơn so với cơ thắt lưng chậu liền kề (Mehard et al .1994; Arita et al. 1997; Hình 16).
17.2 Ý nghĩa
Dấu hiệu lưỡi liềm tăng sáng ở ngoại vi là nguyên nhân của tụ máu cấp sau phình bóc tách ĐM chủ bụng hoặc tụ máu huyết khối sat thành ĐM (Mehard et al. 1994; Arita et al. 1997).
17.3 Nguyên nhân
17.3.1 Vỡ phình ĐM chủ bụng sắp xảy ra
Ở những bệnh nhân không có bằng chứng CT phình động mạch bị rò rỉ, các dấu hiệu lưỡi liềm tăng sáng có mối tương quan có ý nghĩa thống kê với sự hiện diện của đau, kích thước túi phình lớn và phình mạch phức tạp (Mehard et al. 1994). Do đó, các dấu hiệu lưỡi liềm tăng sáng nên được coi là một dấu hiệu của sự sắp vỡ động mạch chủ bụng, đặc biệt ở những bệnh nhân có cơn đau.
18 Dấu hiệu mạc treo ruột mập mờ (Misty Mesentery)
18.1 Đặc điểm
Mạc treo mập mờ được xác định bởi sự xuất hiện thâm nhiễm mỡ mạc treo trên CT với mật độ mô mềm (Mindelzun et al. 1996) (Hình 17).
18.2 Ý nghĩa
Bình thường mỡ mạc treo có tỉ trọng (-100 đến -160 HU) giống mỡ dưới da và sau phúc mạc. Mạc treo mập mờ được định nghĩa bởi một mật độ trung bình của chất béo mạc treo đó tăng đến -40 đến -60 HU thứ phát sau thâm nhiễm mạc treo bởi chất lỏng hoặc các tế bào. Tuỳ theo tính chất và mức độ xâm nhập, mạch máu mạc treo có thể hoàn toàn hoặc một phần bị xóa bỏ. Manh mối để bệnh mạc treo được biểu hiện dọc theo phúc mạc tạng như các bờ mạc treo trở nên nổi bật so với chất béo xung quanh (Mindelzun et al. 1996).
18.3 Nguyên nhân
18.3.1 Phù mạc treo
Phù mạc treo có thể thứ phát sau nhiều nguyên nhân (Seo et al.2003), bao gồm giảm albumine máu, xơ gan, HCTH, suy tim, bệnh ba lá, viêm màng ngoài tim co thắt, tăng áp TM cửa, huyết khối tĩnh mạch cửa,huyết khối động mạch –tĩnh mạch mạc treo tràng trên , viêm mạch, hội chứng BuddChiari, tắc nghẽn TM chủ dưới, chấn thương (Silverman et al. 1987; Nghiem et al. 1993).
18.3.2 Phù bạch huyết
Phù bạch huyết của mạc treo có thể do những nguyên nhân như dị tật bẩm sinh, viêm, u, phẫu thuật, và xạ trị. Trong tất cả các trường hợp chất lỏng thấm vào từ các mạch bạch huyết vào các kẽ của mạc treo (Browse et al. 1992).
18.3.3 Nhiễm trùng
Viêm tụy cấp là quá trình viêm điển hình liên quan đến sự xâm nhập vào mạc treo ruột non. Các bệnh khu trú khác gây viêm như viêm ruột thừa cấp tính và viêm túi thừa cũng có thể là nguyên nhân xâm nhập vào mạc treo liền kề.
18.3.4 Xuất huyết
Máu chảy vào mạc treo có thể bắt nguồn từ mạch máu mạc treo.Xuất huyết cấp được đặc trưng bởi tỉ trọng cao điển hình (40-60 HU) CT số (Nghiem et al. 1993).
18.3.5 U
U lympho Non-Hodgkinlà nguyên nhân phổ biến của dấu hiệu mạc treo mập mờ (Karaosmanoglu et al. 2009).
18.3.6 Vô căn
Viêm mô cơ dưới da mạc treo (xơ cúng mỡ hoặc co rút) là một nguyên nhân thường xuyên của dấu hiệu mạc treo mập mờ (Horton et al. 2003). Chẩn đoán nên được đề nghị trên CT scan bằng các dải bức xạ có mật độ mô mềm bao quanh các mạch trung tâm mà không bị xô đẩy. Thông thường, một quầng sáng chất béo thông thường bao quanh các mạch máu trong mạc treo. U lympho không Hodgkin vẫn là chẩn đoán phân biệt khó khăn nhất.
19 Mẫu thể khảm (Mosaic Pattern)
19.1 Đặc điểm
Các mẫu khảm tương ứng với mô không đồng nhất bởi hình đốm hoa trên mặt lưới khảm của việc tăng cường độ tương phản trong nhu mô gan (Goreetal.1994) (Hình 18).
19.2 Ý nghĩa
Các mẫu thể khảm là một dấu hiệu CT chính xác cho tắc nghẽn gan thụ động. Nó có lẽ do dòng chảy tĩnh mạch bị suy yếu dẫn đến huyết động gan bị thay đổi và biến dạng trong nhu mô gan (Gore et al. 1994). Các khu vực thẳng và cong tỉ trọng kém có thể do tăng cường chậm trong các vùng tĩnh mạch gan vừa và nhỏ. Vùng loang lổ rộng tỉ trọng kém hoặc tăng cường chậm ở ngoại vi của gan có thể do xu hướng dòng máu ứ đọng máu nhiều trong các khu vực này, ở bệnh nhân tăng áp tĩnh mạch gan. Máu ứ đọng cao nhất ảnh hưởng đến dòng chảy lưu thông từ động mạch gan và tĩnh mạch cửa (Holley et al. 1989).
19.3 Nguyên nhân
19.3.1 Suy tim sung huyết
Trong suy tim sung huyết, mẫu thể khảm là do những áp lực tĩnh mạch trung tâm cao được truyền trực tiếp từ tâm nhĩ phải vào tĩnh mạch chủ dưới xuống tĩnh mạch gan (DeLasHeras and Pages 2001). Gan trở nên căng sưng như giãn xoang TM gan ra và ứ lại để phù hợp với dòng chảy ngược của máu.
19.3.2 Viêm màng ngoài tim co thắt
Do tăng nhanh chóng áp lực tĩnh mạch trung ương trong viêm màng ngoài tim thắt dẫn đến tĩnh mạch chủ dưới giãn ra, các tĩnh mạch gan giãn, cổ trướng, mô mềm mạc treo bện hình sợi chỉ và tăng cường đốm khảm của nhu mô gan (Johnson et al. 2008).
20 Dấu hiệu nguy cơ bắc bán cầu (Northern Exposure Sign)
20.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu nguy cơ bắc bán cầu là một phát hiện có thể được chứng minh trên quan điểm CT khảo sát và trên CT Scan (Levsky et al. 2010). Ban đầu nó được xác định trên X quang bụng nằm ngửa do đại tràng sigmoid giãn lan lên về phía đầu đại tràng ngang (Javors et al. 1999) (Hình 19).
20.2 Ý nghĩa
Khí trong ống tiêu luôn tìm kiếm các vị trí đại tràng phù hợp nhất.Khi bệnh nhân nằm ngửa, khí trong ống có xu hướng tích tụ trong đại tràng ngang, phân khúc bụng cao nhất của ruột già. Đại tràng ngang đi qua đường giữa treo mạc treo tách khoang phúc mạc lớn thành 2 bán cầu trên mạc treo kết tràng và dưới mạc treo kết tràng (Meyers 1994). Như vậy, đại tràng ngang có thể được coi là đường xích đạo của bụng. Trong sơ đồ này, đại tràng sigmoid thường chỉ giới hạn ở Nam bán cầu, đuôi đến đại tràng ngang. Khi đỉnh của đại tràng sigmoid di chuyển về phía đầu (hoặc phía Bắc) đến đại tràng ngang, như trong trường hợp xoắn ruột sigma, dấu hiệu này được gọi là dấu hiệu nguy cơ Bắc bán cầu (Javors et al. 1999).
20.3 Nguyên nhân
20.3.1 Xoắn địa tràng Sigmoid
Các dấu hiệu nguy cơ Bắc bán cầu được dựa trên các mối quan hệ giải phẫu và sinh lý của đại tràng sigma với các phần khác của ruột hơn là mốc đốt sống hoặc vị trí của nội tạng khác. Theo Javors (1999), mức độ cao đại tràng sigmoid phồng trên đại tràng ngang có giá trị phân biệt xoắn đại tràng sigmoid với các nguyên nhân dãn ruột già khác. Sử dụng chụp X quang thông thường, họ đã chứng tỏ các dấu hiệu nguy cơ bắc bán cầu có độ nhạy cảm (88%) và rất đặc hiệu (100%) với xoắn đại tràng sigmoid.
21 Dấu hiệu cổ áo quanh tĩnh mạch cửa (Periportal Collar Sign)
21.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu cổ áo quanh tĩnh mạch cửa (hoặc dấu hiệu quầng quanh tĩnh mạch cửa) tương ứng với khu vực có tỉ trọng tương đối thấp gần bằng với nước song song TM trung tâm hay nhánh ngoại biên của tĩnh mạch cửa trên CT Scan (Koslin et al. 1988; Shanmuganathan et al. 1993) (Hình 20).
21.2 Ý nghĩa
Phù quanh TM cửathường là do sự giãn nở của các mạch bạch huyết và tích lũy bạch huyết do tắc nghẽn hệ thống bạch mạch của gan bình thường, có thể nguyên nhân của dấu hiệu này ở bệnh nhân suy tim sung huyết và tắc nghẽn gan thứ phát, viêm gan, hoặc các hạch bạch huyết hoặc các khối u trong rãnh ngang gan (Marineck et al. 1986)
Một quầng quanh tĩnh mạch cửa, là do một trong hai lý do xuất huyết dọc theo đường đi tĩnh mạch cửa (Macrander et al. 1989) hoặc áp lực tĩnh mạch cao (Shanmuganathan et al. 1993), đã được mô tả ở những bệnh nhân có tổn thương gan. Dấu hiệu này cũng có thể được nhìn thấy trong những người nhận ghép gan hoặc cấy ghép tủy xương.
21.3 Nguyên nhân
21.3.1 Chấn thương gan trực tiếp
Tỉ trọng thấp quanh tĩnh mạch cửa thường thấy trên CT Scan của bệnh nhân chấn thương, đặc biệt khi lan tỏa hoặc ngoại vi và nhiều khả năng đại diện cho chướng của mạch bạch huyết quanh tĩnh mạch cửa và phù bạch huyết kết hợp với áp lực tĩnh mạch trung tâm cao gây ra bởi truyền dịch tĩnh mạch nhanh-lượng nhiều (Shanmuganathan et al. 1993). Bóc tách xuất huyết dọc theo tĩnh mạch cửa liên quan đến tổn thương gan có thể góp phần tạo nên vùng mật độ thấp khu trú quanh tĩnh mạch cửa tại vị trí của chấn thương.
21.3.2 Suy tim
Trong suy tim, tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm được giả định là nguyên nhân của các dấu hiệu cổ áo quanh tĩnh mạch cửa (Lawson et al. 1993).
21.3.3 Viêm gan cấp
Các dấu hiệu cổ áo quanh tĩnh mạch cửa có thể được nhìn thấy trong giai đoạn trước vàng da của viêm gan, do tắc nghẽn (Lawson et al. 1993).
21.3.4 Non-Hodgkin Lymphoma
Trong u lympho non-Hodgkin , hạch to mặt trong rãnh ngang gan có thể cản trở dẫn lưu bạch huyết và là nguyên nhân dấu hiệu cổ áo quanh tĩnh mạch cửa (Karcaaltincaba et al. 2007).
22 Ruột chướng khí (Pneumatosis Intestinalis)
22.1 Đặc điểm
Ruột chướng khí được định nghĩa là sự hiện diện của khí trong thành ruột (Knechtle et al. 1990). Nó được coi là “giống bong bóng” (Bubblelike) nếu nó chỉ hoặc chủ yếu là bong bóng bị cô lập với không khí ở thành ruột, trong khi nó được phân loại là “giống dải băng” (Bandlike) nếu nó bao gồm dải băng khí liên tục trong thành ruột bị ảnh hưởng(Wiesner et al. 2001; Soyer et al. 2008) (Hình 21).
22.2 Ý nghĩa
Hai đặc điểm đặc trưng cơ bản cho hầu hết các trường hợp ruột chướng khí: chấn thương niêm mạc (quan trọng và hay gặp nhất) và tăng áp lực trong lòng ruột. Ngoài ra, các vi sinh tạo khí xâm nhập thành ruột cũng có thể gây ruột chướng khí.
22.3 Nguyên nhân
22.3.1 Nang khí trực khuẩn
“Bubblelike” ruột chướng khí bao gồm tập hợp các nang khí, thường nằm ở đại tràng. Điều kiện lành tính nếu có thể duy trì ổn định trong nhiều năm nhưng có thể phức tạp bởi sự tắc nghẽn hoặc chảy máu. Nguyên nhân của nó là không rõ, nhưng thường xuyên liên quan với bệnh khí thũng cho thấy không khí có thể bóc tách qua các mô trung thất để vào khoang mạc treo ruột và dưới thanh mạc.
22.3.2 Rối loạn dạ dày ruột
“Bandlike” ruột chướng khí, mặt khác, được đặc trưng bởi đường tuyến tính hoặc vòng tròn khí trong bất kỳ phần nào của đường tiêu hóa và liên quan với nhiều điều kiện lâm sàng, chẳng hạn như tắc ruột (Merlin et al. 2008), ruột thiếu máu cục bộ (Keyting et al. 1961), ruột chấn thương trực tiếp (Furuya et al. 2002), nội soi tiêu hóa (Meyers et al. 1977), viêm ruột do vi khuẩn hoặc nấm (Kleinman et al. 1980), và ung thư điều trị ức chế tế bào (Rha et al. 2000).
Bệnh nhân biểu hiện triệu chứng hoặc dấu hiệu của đau bụng cấp một phương pháp phẫu thuật lập tức liên quan nhiễm toan cho thấy ruột hoại tử và báo trước một tiên lượng nghiêm trọng.
23 Khí túi mật (Pneumobilia)
23.1 Đặc điểm
Khí túi mật được định nghĩa bởi sự hiện diện của nhiều hình ảnh ống không khí phân nhánh trong gan (-1.000 HU) trên CT Scan. Khí thường ở trung tâm gan (trái ngược với khí tĩnh mạch cửa ở ngoại vi) (Hình 22).
23.2 Ý nghĩa
Không khí trong đường mật có thể đến hoặc từ đường ruột hoặc nhiễm trùng đường mật. Nguyên nhân không do phẫu thuật của khí túi mật là không phổ biến và thường là dấu hiệu của bệnh nghiêm trọng.
23.3 Nguyên nhân
23.3.1 Do bác sĩ
Khí túi mật thường thấy nhất ở những bệnh nhân sau phẫu thuật, trong đó một miệng nối mật-ruột đã được tạo ra hoặc thực hiện cắt cơ thắt (Sherman and Tran 2006).
23.3.2 Tắc ruột do sỏi mật
Tắc ruột do sỏi mật là một biến chứng hiếm gặp của viêm túi mật sỏi mật tái phát và được xác định bởi tắc ruột non do sỏi lạc chỗ. Trong tắc ruột sỏi mật, sỏi mật tìm thấy trong đường ruột được tạo ra bởi một lỗ rò tá tràng- đường mật (Shimono et al. 1998). Rò này giữa tá tràng và túi mật thường dẫn đến sự hiện diện của không khí trong đường mật (Delabrousse et al. 2000). Hội chứng Bouveret được xác định bởi sự niêm chặt tá tràng của sỏi lạc chỗ (Brennan et al. 2004).
23.3.3 Viêm mủ đường mật tái phát
Khí túi mật được thấy trong viêm mủ đường mật tái phát do hình thành từ các cơ quan (Afagh and Pancu 2004).
23.3.4 Viêm túi mật tràn khí
Viêm túi mật tràn khí là một bệnh nhiễm trùng cấp tính của thành túi mật gây ra khí. Khí có thể ở trong thành và lòng túi mật. Khí túi mât là một dấu hiệu CT hiếm gặp nhưng có thể có của viêm túi mật tràn khí (Van Dyck et al. 2001).
23.3.5 Cơ vòng Oddi yếu
Khí túi mật thoáng qua được cho là do cơ vòng Oddi yếu (Shariatzadeh and Bolivar 1973), đặc biệt khi áp suất trong tá tràng tăng lên.
24 Tràn khí phúc mạc (Pneumoperitoneum)
24.1 Đặc điểm
Tràn khí phúc mạc được định nghĩa khi khí xuất hiện ngoài đường dạ dày ruột (Baker 1996) (Hình 23).
24.2 Ý nghĩa
Trong một tình trạng cấp tính, tràn khí phúc mạc thường là một dấu hiệu của thủng ruột. Không khí tự do quanh tĩnh mạch cửa trên CT Scan đã được báo cáo cụ thể thủng đường tiêu hóa trên (Cho et al. 2009).
24.3 Nguyên nhân
24.3.1 Thủng dạ dày ruột
Khi được chẩn đoán tràn khí màng bụng ở bệnh nhân không chấn thương, thủng đường tiêu hóa do loét dạ dày hoặc tá tràng, viêm túi thừa sigma, thiếu máu ruột, phình đại tràng nhiễm độc, hoặc một dị vật phải được xem xét (Ghekiere et al. 2007).
24.3.2 Khâu nối rò rỉ ống tiêu hóa
Chất lỏng khu vực quanh miệng nối có chứa không khíđược thống kê duy nhất thường xuyên được thấy với rò miệng nối dạ dày ruột (Power et al. 2007).
24.3.3 Chấn thương bụng trực tiếp với tổn thương dạ dày ruột
Những hình ảnh quét CT ban đầu và theo dõi được báo cáo để phát hiện khí ngoài ống tiêu hóa trong 58 và 92% các trường hợp. Các cơ hội phát hiện tăng không khí ngoài ống tiêu hóa trong thời gian thực (Saku et al. 2006).
24.3.4 Chấn thương xuyên phúc mạc
Không giống như tràn khí màng bụng nhìn thấy trên phim chuẩn, tràn khí màng bụng phát hiện trên CT Scan là không đặc trưng cho bệnh thủng ruột (Kane et al. 1991), và tràn khí màng phổi liên quan có thể được coi là một nguyên nhân .
24.3.5 Thủng do thầy thuốc
Thủng dạ dày ruột có thể xảy ra trong quá trình nội soi (Eisenbach et al. 2008), phẫu thuật ruột, thụt đại tràng (Chong et al. 1987).
24.3.6 Tràn khí phúc mạc tự phát
Các vị trí phổ biến hơn về nguồn gốc của tràn khí phúc mạc tự phát là từ các nơi trong lồng ngực và cơ quan sinh dục nữ (Madura et al. 1982).
25 Tràn khí sau phúc mạc (Pneumoretroperitoneum)
25.1 Đặc điểm
Tràn khí sau phúc mạc được định nghĩa khi có sự xuất hiện của khí tự do (-1,000 HU) ở trong khoang phúc mạc. Thông thường, khí thường xuất hiện xung quanh thận, và dọc theo đường viền các cơ xương chậu (Hình 24).
25.2 Ý nghĩa
Không khí tự do có thể tích tụ trong khoang sau phúc mạc sau khi thủng một đoạn ruột sau phúc mạc, hoặc không khí có thể lan truyền dưới cơ hoành từ một tràn khí trung thất (Daly et al. 2008).
25.3 Nguyên nhân
25.3.1 Thủng tá tràng
Thủng tá tràng có thể thứ phát sau loét dạ dày (Pun and Firkin 2004), bệnh bạch cầu (Chao et al. 1999), một tác nhân từ bên ngoài cơ thể (Maniatis et al. 2000), chấn thương tá tràng (Yagan et al. 2009).
25.3.2 Thủng trực tràng
Thủng chủ yếu là do các nguyên nhân do điều trị (nội soi, phẫu thuật, sinh thiết)(Miyatani and Yashida 2007) chấn thương trực tràng (cơ quan ngoại lai) (Waraich et al. 2007).
25.3.3 Sự lây lan của tràn khí sau phúc mạc
Khí tràn dọc theo các mạch máu lớn (Động mạch chủ và tĩnh mạch chủ dưới) thông qua cơ hoành vào khoang quanh thận (Perrone et al. 2005).
26 Tràn khí trong tĩnh mạch mạc treo ruột (Portomesenteric Venous Gas)
26.1 Đặc điểm
Tràn khí TM mạc treo ruột được định nghĩa là sự xuất hiện của khí (-1,000 HU) trong lưu thông tĩnh mạch mạc treo ruột (Wiesner et al. 2001). Trong gan, khi có nhiều hơn hai hình ảnh khoang hình ống ở khu vực ngoại vi của gan (nằm trong khoảng 2cm của nang gan) sẽ giúp phân biệt với tràn khí màng phổi – hình ảnh thường nằm ở trung tâm hơn (Hình 25).
26.2 Ý nghĩa
Tràn khí tĩnh mạch mạc treo ruột có thể xuất hiện sau khi tổn thương thành của đường tiêu hóa gây ra bởi nhiễm trùng và viêm, nhưng cũng có thể xuất hiện sau một vết loét hoặc vết phồng (Sebastia et al. 2000). Bên cạnh đó, khí tĩnh mạch mạc treo ruột có thể xảy ra mà không chướng hơi ruột trong nhiều điều kiện khác.
26.3 nguyên nhân
26.3.1 Thiếu máu ruột cục bộ
Tràn khí tĩnh mạch mạc treo ruột rất đặc trưng, nhưng không phổ biến, CT cho thấy nó thường phát sinh do thiếu máu cục bộ ruột (Schulze et al. 1995). Trong thiếu máu ruột, sự xuất hiện của khí tĩnh mạch mạc treo ruột trên CT thường gắn liền với một tỷ lệ tử vong 56% (Wiesner et al. 2001).
26.3.2 Viêm loét đại tràng
Tràn khí tĩnh mạch cửa có thể là một phát hiện lành tính trong trường hợp của loét đại tràng.
26.3.3 Loét dạ dày
Rất ít trường hợp của khí tĩnh mạch cửa từ loét dạ dày tá tràng đã được báo cáo (Liebman et al. 1978).
26.3.4 Tắc ruột
Tràn khí tĩnh mạch cửa gan và tắc ruột non không có dấu hiệu hoại tử ruột đã được báo cáo bởi Tsai et al. (2000).
26.3.5 Hoại tử tụy
Viêm hoại tử tụy là một nguyên nhân hiếm gặp của khí tĩnh mạch cửa gan (Wu and Wang 2009).
26.3.6 Viêm ruột thừa cấp
Viêm túi thừa sigma phức tạp bởi một lỗ rò tĩnh mạch ruột, viêm tĩnh mạch cửa, hoặc một áp xe quanh sigma là một nguyên nhân hiếm gặp của tràn khí tĩnh mạch cửa gan (Haak et al. 1990; Heye et al. 2002).
26.3.7 Chấn thương bụng kín
Chấn thương bụng kín có thể dẫn đến tràn khí tĩnh mạch cửa. Khí được gây ra bởi một sự gia tăng đột ngột áp lực trong ổ bụng đồng thời cùng với sự gián đoạn niêm mạc, do đó lực lượng khí tràn vào lưu thông và đọng lại bên trong bệnh nhân chấn thương (Furuya et al. 2002).
26.3.8 Do thầy thuốc
Thiếu hụt Bari (Stein et al.1983), nội soi, đặt xông ống nội khí quản thông mũi dạ dày, và cấy ghép gan là nguyên nhân điển hình của khí tĩnh mạch mạc treo ruột ở người lớn.
27 Dấu hiệu vòng bụng (Round Belly Sign)
27.1 Đặc điểm
Các dấu hiệu bụng tròn tích cực được xác định bằng tỷ lệ tăng đường kính trước sau bụng-to-ngang [0,80. Tỷ lệ này được đo tại mức từ các tĩnh mạch thận trái qua động mạch chủ, không bao gồm các chất béo dưới da (Pickhardt et al. 1999) (Hình 26).
27.2 Ý nghĩa
Các dấu hiệu bụng tròn tương ứng với đầy bụng thứ cấp có thể gây tăng áp lực ổ bụng trong nội bộ.
27.3 Nguyên nhân
27.3.1 Hội chứng khoang bụng
Sự xuất hiện vòng bụng trên CT Scan ở bệnh nhân có hội chứng khoang bụng có mối tương quan với bụng lớn, chướng trên khám lâm sang. Pickhardt et al. (1999) đã báo cáo một giá số cắt là 0,80 (các dấu hiệu bụng tròn) với độ nhạy 100% và 94% độ đặc hiệu để chẩn đoán hội chứng khoang bụng. Đối với một số các tác giả khác, không cần đến giá trị của tỷ lệ này thì sự xuất hiện của một sự gia tăng cấp tính và không cần bất kỳ giải thích cho nó, chẳng hạn như sự phát triển của dịch màng bụng hoặc tắc ruột, có thể gợi ý cho việc chẩn đoán hội chứng khoang bụng (Zissin 2000; Laffargue et al. 2002; Patel et al. 2007).
28 Dấu hiệu cục máu đông canh gác (Sentinel Clot Sign)
28.1 Đặc điểm
Khi quét CT không có thuốc tương phản, dấu hiệu nhận biết cục máu đông canh gác chính là sự hiện diện của một khối có đậm độ cao và có tỷ trọng CT trung bình lớn hơn 60 HU khi đo ROI. Nếu không có điều kiện sẵn có để đo bằng máy, thì sự hiện diện của một khối không đồng nhất đậm độ cao hơn rõ so với máu trong phúc mạc chính là bằng chứng cho thấy dấu hiệu xuất hiện của một cục máu đông canh gác (Orwig and Federle 1989) (Hình 27).
28.2 Ý nghĩa
Dấu hiệu cục máu đông canh gác tương ứng với cục máu đông khu trú trong ổ bụng. Dấu hiệu cục máu đông canh gác được cho là có liên quan đến tạng đặc hoặc tạng rỗng liền kề vì đây là vị trí có khả năng bị tổn thương và nguồn xuất huyết cao nhất (Orwig and Federle 1989).
28.3 Nguyên nhân
28.3.1 Chấn thương bụng kín
Dấu hiệu nhận biết quan trọng cục máu đông khi nguồn chảy máu là một cơ quan lân cận bị thương (Hamilton et al. 2008). Đó là một dấu hiệu thường xuyên và chính xác có thể giúp tập trung sự chú ý vào các tổn thương do chấn thương (Shinn et al. 2007). Bằng việc trang bị chẩn đoán chấn thương cho một cơ quan cụ thể, nó góp phần đến các chỉ định của điều trị phẫu thuật so với các quyết định chủ quan (Orwig and Federle 1989).
28.3.2 Chảy máu đường tiêu hóa
Không chảy máu ở các ổ loét, có thể do nguyên nhân huyết khối, có thể ít dẫn tới tái xuất huyết (Freeman et al. 1993).
28.3.3 Vỡ lách
Sự hình thành các cục máu đông gần với nguồn chảy máu có thể là dấu hiệu có giá trị trong vỡ lách tự phát (Geyer et al. 2003). Trong quá trình tiếp theo, cục máu đông sẽ tan dần và các tác nhân gây suy giảm giá trị máu sẽ giảm.
29 Dấu hiệu phân trong ruột non (Small Bowel Feces Sign)
29.1 Đặc điểm
Các phân ruột non dấu hiệu được mô tả lần đầu tiên vào năm 1995 bởi Mayo-Smith et al. Nó được xác định bởi sự xuất hiện của các hạt (colonlike) có mùi hôi thối trộn lẫn với bọt khí trong lòng của các đoạn ruột non (Fuchsjäger 2002) (Hình 28).
29.2 Ý nghĩa
Các hạt vật chất không đồng nhất trộn với bọt khí nhỏ khi quan sát thì thấy các dấu hiệu phân trong ruột non giống như sự xuất hiện của phân trong ruột già trên CT. Nó là hậu quả của sự tiêu hóa kém và bất thường, hoặc do cơ khí hoặc từ nguồn gốc chức năng, và được cho là do thức ăn tiêu hóa chưa hết, hoặc do sự phát triển quá mức của vi khuẩn, hoặc do sự tăng hấp thụ nước của thành ruột non do tắc nghẽn (Mayo-Smith et al. 1995; Catalano 1997).
29.3 Nguyên nhân
29.3.1 Tắc ruột non
Dấu hiệu phân ở ruột non đã được báo cáo nguyên do từ tắc ruột non ở nhiều tác giả (Mayo-Smith et al. 1995; Catalano 1997; Delabrousse et al. 2005). Từ các dấu hiệu nhận biết của tắc nghẽn ruột non, nó có thể giúp ta định được vị trí và nguyên nhân của phân trong ruột non (Lazarus et al. 2004). Dấu hiệu chính nhận biết chính là tắc ruột non do dính. Trên thực tế ,dấu hiệu này bước đầu đã được mô tả với tắc nghẽn cấp tính ruột, Lazarus et al. (2004) nói rằng dấu hiệu phân ở ruột non có thể liên quan nhiều hơn với mức độ tắc nghẽn. Hơn nữa, các dấu hiệu phân ở ruột non đã được báo cáo chính là thứ để cản trở không đầy đủ với phát triển quá chậm khiến nó hầu như trái ngược hoàn toàn với tắc nghẽn. Do đó, quan điểm cho rằngdấu hiệu có một ít phân ở ruột có thể là một ý kiến chủ quan dung để giải trí (Delabrousse et al. 2005).
30 Dấu hiệu vòng nan hoa (Spoke Wheel Sign)
30.1 Đặc điểm
Các dấu vòng nan hoa được định nghĩa là, các quai ruột giãn do chứa chất lỏng toả tròn và xung quanh tụ dày lên đồng thời kéo dài mạch máu mạc treo (Jaramillo and Raval 1986) (Hình 29).
30.2 Ý nghĩa
Trong xoắn ruột non, xoắn ở gốc là kết quả của việc mạc treo bị rút ngắn, mạc treo có hình dạng phễu dọc theo trục quay. Việc rút ngắn và thắt chặt mạc treo đã làm giãn các quai ruột và đẩy các chất lỏng ra vị trí ngoại vi nhiều hơn trung tâm, đồng thời mạch máu căng và dày với hình nan hoa gắn với trục của bánh xe. Việc kéo dài và căng mạch máu mạc treo có thể dẫn đến việc sắp xếp lại các quai ruột và xoắn lại làm hội tụ các mạc treo về phía trung tâm, tạo nếp gấp làm suy giảm các mô mềm. Các kết quả nói trên được nhận biết nhờ vào dấu nan hoa khi trên mặt cắt ngang có khi hình ảnh với trục dài của vòng xoay ruột (Rudloff 2005). Thông thường, một dấu hiệu chính xác thường được kết hợp với các dấu hiệu nan hoa.
30.3 Nguyên nhân
30.3.1 Xoắn ruột non
Các dấu hiệu nan hoa gợi ý nhiều đến xoắn ruột non. Nó kết hợp giữa chẩn đoán của cả mạc treo ruột và ruột non, từ đó giúp đỡ trong việc phát hiện tắc nghẽn ruột kín (Balthazar et al. 1997). Sự kết hợp của dấu hiệu này cùng với sự thiếu máu cục bộ ruột và nhồi máu đã gợi ý đến việc nghi ngờ hoại tử ruột và nhất là thắt ruột.
31 Dấu hiệu chuỗi ngọc (String of Pearls Sign)
31.1 Đặc điểm
Dấu hiệu chuỗi ngọc được phát hiện trên CT scan, ban đầu được xác định trên xquang bụng (Maglinte et al. 1996). Cũng thường được gọi là chuỗi bọt, dấu hiệu này bao gồm 1 hàng nhiều bọt khí nhỏ bị mắt kẹt giữa vòng van dọc theo thành trên của các vòng ruột non (Nevitt 2000) (Hình 30).
31.2 Ý nghĩa
Dấu hiệu chuỗi ngọc trai tương ứng với một lượng nhỏ không khí bị mắc kẹt giữa các vòng van. Sự giãn của ruột non sẽ kích thích niêm mạc tiết ra chất lỏng. Như vậy, ruột phình to có chứa hàm lượng khác nhau của không khí và chất lỏng. Khi ruột non dãn, các vòng van mở rộng, và điều này gây ra không khí ở ruột non bị mắc kẹt (Nevitt 2000). Mặt lỏm của chất lỏng tạo cho không khí bị mắc kẹt một hình trứng hay hình tròn, dẫn đến xuất hiện chuỗi ngọc trai.
31.3 Nguyên nhân
31.3.1 Tắc ruột non cơ học
Mặc dù các chuỗi các dấu hiệu ngọc trai là hiếm thấy trong ruột cơ năng, viêm dạ dày ruột cấp tính, và súc rửa bằng nước muối, khi hiện diện trong bối cảnh lâm sàng, nó được coi là chẩn đoán của tắc ruột non cơ học (Levin 1973; Maglinte et al. 1996.). Tầm quan trọng của việc nhận dấu hiệu chuỗi ngọc thường liên quan đến các phát hiện lâm sàng và CT khác của tắc ruột non.
32 Dấu hiệu vành (Tissue Rim Sign)
32.1 Đặc điểm
Dấu hiệu vành là một phát hiện trên CT được xác định bởi sự hiện diện của một vành (hoặc quầng) của tỷ trọng mô mềm được nhìn thấy xung quanh chu vi của một sỏi niệu quản trên CT Scan cản quang mặt phẳng axial (Heneghan et al. 1997; Kawashima et al. 1997)(Hình 31).
32.2 Ý nghĩa
Dấu hiệu vành được cho làđặc trưng cho sự dày lên của thành niệu niểu quản thứ cấp sau phù nề do sự tắc nghẽn của sỏi niệu quản (Smith et al. 1995). Nó được báo cáo là hữu ích trong việc phân biệt sỏi niệu quản và sự vôi hóa ngoài niệu quản (Smith et al. 1995; Smith et al. 1996) sỏi không có dấu hiệu vành thường lớn hơn sỏi có dấu hiệu vành,có lẽ bởi vì sự căng giãn thành niệu quản bởi sỏi lớn hơn (Heneghan et al. 1997). Trong một thời gian, thời gian của sự tắc nghẽn đã được đề xuất như một lời giải thích khác cho sự vắng mặt hay có mặt của dấu hiệu vành. Tuy nhiên, Heneghan et al. (1997) đã cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê trong trường độ triệu chứng giữa những bệnh nhân bị sỏi có dấu hiệu vành hay không có dấu hiệu vành.
32.3 Nguyên nhân
32.3.1 Sỏi niệu quản
Một dấu hiệu vành rõ ràng là đặc trưng để chẩn đoán sỏi niệu quản. Tuy nhiên, một dấu hiệu không rõ ràng cũng không loại trừ chẩn đoán như vậy. Sự hiện diện của dấu hiệu vành cần được xem xét cẩn thận các dấu hiệu khác trên CT, chẳng hạn như sự giãn cùng bên,phù quanh thận, sự giãn nở của hệ thống bên trong thận và phù thận (Kawashima et al. 1997).
33 Dấu hiệu cuộn xoáy (Whirl Sign)
33.1 Đặc điểm
Sự xuất hiện của dấu hiệu cuộn xoáy là một khối mô mềm nằm bên trong cấu trúc của dãi cuộn xoáy của mô mềm và tỷ trọng chất béo (Khurana 2003) (Hình 32).
33.2 Ý nghĩa
Dấu hiệu cuộn xoáy là một gới ý cao của xoắn ruột điều này xảy ra khi vòng hướng tâm và ly tâm ruột xoay quanh một điểm cố định của tắc nghẽn, mà kết quả là mạc treo xoắn chặt dọc theo trục quay. Những vòng xoắn ruột và mạch máu mạc treo tạo các dãi xoáy tỷ trọng mô mềm trong một nền tảng của tỷ trọng mỡ mạc treo, giống như sự xuất hiện của một cơn bão trên bản đồ thời tiết (Moore et al. 2001). Các dấu hiệu cuộn được đánh giá cao nhất khi quét CT được thực hiện vuông góc với trục quay của ruột (Khurana 2003).
33.3 Nguyên nhân
33.3.1 Xoắn dạ dày
Dấu hiệu cuộn xoáy được mô tả lần đầu tiên bởi Fisher (1981) là một phát hiện CT của xoắn ruột non, nơi trung tâm của vòng xoáy là động mạch mạc treo tràng trên, và sự xuất hiện của dấu cuộn xoáy đã được tạo ra bởi các vòng bao quanh ruột.
33.3.2 Xoắn đại tràng xích ma
Bốn năm sau, định nghĩa của các dấu cuộn xoáy đã được mở rộng để bao gồm sự xuất hiện của trên CT của xoắn đại tràng xích ma nơi một mà một cuộn xoáy đã được hình thành bởi các vòng đại tràng xích ma hướng tâm và ly tâm với phần trung tâm gồm phần ruột xoắn chặt và mạc treo. Đối với một số tác giả, độ kín của vòng xoáy tỷ lệ thuận với mức độ quay.
33.3.3 Xoắn manh tràng
Dấu hiệu cuộn xoáy cũng đã được báo cáo trong xoắn manh tràng. Trong xoắn manh trang, dấu hiệu cuộn xoáy bao gồmvòng xoắn manh tràng và mạc treo ruột (Frank et al. 1993). Sinh lý bệnh, có 3 loại xoắn manh tràng được phân biệt. Trong các kiểu vòng xoắn, vòng hồi tràng ở ngoại biện có lẽ cũng góp phần nào cho việc tạo ra dấu hiệu cuộn xoáy.
33.3.4 Xoắn ruột non
Nguyên nhân chính của xoắn ruột non là dính sau phẫu thuật, trong đó ruột được cố định vào một điểm hoạt động như một trục, dẫn đến vòng khép kín tắc nghẽn, và thoát vị (Balthazar et al. 1997). Trong tắc ruột non, sự hiện diện của một dấu hiệu cuộn xoáy là chỉ điểm rất quan trọng, nó chỉ ra một xoắn ruột.
Tải bản gốc
Bản dịch Các dấu hiệu quan trọng trên cắt lớp vi tính bụng là chương 2 Key CT Findings của sách CT of the Acute Abdomen (Springer, 2011).
Bạn đọc tải về bản gốc tiếng Anh với định dạng pdf bên dưới:
- Tải sách (EN) → CT of the Acute Abdomen 1ed 2011
- Tải chương 2 (EN) → [PDF] Key CT Findings
- Tải bản dịch (VI) → [PDF] Dấu hiệu quan trọng trên CT bụng
Trang web đang upload liên tục các video bài giảng và tài liệu chẩn đoán hình ảnh. Để nhận thông báo về các bài viết mới nhất, vui lòng đăng ký Nhận bài viết mới và theo dõi Kênh Youtube