[Sách dịch] Hướng dẫn thực hành siêu âm tim thai – Siêu âm tim ở tuổi thai sớm

Siêu âm tim ở tuổi thai sớm là bản dịch Chương 16 của sách Hướng dẫn thực hành siêu âm tim thai (A Practical Guide to Fetal Echocardiography: Normal and Abnormal Hearts) do GS Alfred AbuhamadGS Rabih Chaoui chủ biên.

Người dịch BS Sơn Lâm, hiệu chỉnh BS Nguyễn Văn Thụy, Nhóm Siêu âm Tim thai Đà Nẵng.

Nội dung và định dạng bản dịch theo sách gốc để bạn đọc dễ tham khảo và đối chiếu.

Đây là một nguồn tham khảo hay tạo nền tảng cho các bác sĩ thực hành siêu âm chẩn đoán và tư vấn chính xác các bệnh tim bẩm sinh.

Giới thiệu sách và các chương: Hướng dẫn thực hành siêu âm tim thai (A Practical Guide to Fetal Echocardiography: Normal and Abnormal Hearts)

CHƯƠNG 16. SIÊU ÂM TIM Ở TUỔI THAI SỚM

Nội dung

• GIỚI THIỆU

• KỸ THUẬT SIÊU ÂM TIM THAI SỚM

• DẤU HIỆU GIÁN TIẾP CỦA CÁC BẤT THƯỜNG TIM Ở THAI KỲ SỚM

• CHỈ ĐỊNH SIÊU ÂM TIM THAI SỚM

• PHƯƠNG DIỆN AN TOÀN

• LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ CỦA SIÊU ÂM TIM THAI SỚM

• ĐIỂM CHÍNH

● GIỚI THIỆU

Trong thập kỷ qua đã có sự chấp nhận rộng rãi việc đánh giá nguy cơ trong tam cá nguyệt một với độ mờ da gáy (NT) và các dấu hiệu khác trên siêu âm, điều này làm
tăng mối quan tâm đến siêu âm bất thường sớm nói chung và siêu âm tim thai nói riêng. Sàng lọc NT cho phép phát hiện thai có bất thường nhiễm sắc thể trong ba tháng đầu với các bất thường tim liên quan. Thêm vào đó, NT dày là yếu tố nguy cơ của các bất thường tim.

Đầu những năm 1990, các chuyên gia đã báo cáo về khả năng phát hiện bất thường tim ở cuối tam cá nguyệt một và đầu tam cá nguyệt hai thai kỳ, nhưng phương pháp này chỉ giới hạn ở một số trung tâm chuyên sâu về chẩn đoán hình ảnh thai nhi. Siêu âm tim thai trong thai kỳ sớm đã đủ rõ để chẩn đoán dị tật tim nhờ sự ra đời của đầu dò bụng và đầu dò âm đạo độ phân giải cao (Hình 16.1 đến 16.5). Cộng đồng khoa học hiện nay vẫn đang không thống nhất về cửa sổ tuổi thai cho phép siêu âm tim thai sớm. Một số tác giả coi việc siêu âm tim có chủ đích giai đoạn 16 tuần thai kỳ là siêu âm tim thai sớm, trong khi những người khác thiết lập cửa sổ tuổi thai độ mờ da gáy từ 11+0 đến 13+6 tuần cho siêu âm tim sớm. Tuy nhiên hầu hết các chuyên gia coi việc thực hiện siêu âm tim có chủ đích trong tam cá nguyệt một và đầu tam cá nguyệt hai (11 -16 tuần) là siêu âm tim thai sớm.

Dữ liệu đầy đủ về hiệu quả của siêu âm tim thai sớm ngày một tăng lên và thăm khám này hiện nay được xem là phần không thể thiếu ở các trung tâm chuyên sâu trong lĩnh vực này. Trong sách này, chúng tôi đã tích hợp ở mỗi chương bất thường tim một phần về phát hiện bất thường trong thai kỳ sớm. Trong chương này, chúng tôi thảo luận phần cơ bản và kỹ thuật liên quan đến siêu âm tim thai sớm bên cạnh các chỉ định chung và lợi ích tiềm năng cũng như hạn chế của phương pháp này.   

● KỸ THUẬT SIÊU ÂM TIM THAI SỚM

Thăm khám tim thai trong thai kỳ sớm yêu cầu thay đổi cách tiếp cận so với khám siêu âm trong tam cá nguyệt hai. Một mặt, đó là thách thức thực sự đối với người thực hiện làm sao để thao tác chính xác trên máy siêu âm và có được hình ảnh độ phân giải cao tối ưu nhất trên thang xám và Doppler màu. Mặt khác, các điều kiện siêu âm thường bị giới hạn bởi vị trí thai nhi nên thường đòi hỏi phải chuyển giữa đường bụng và đường âm đạo và/hoặc di chuyển nhẹ tử cung để đưa thai vào vị trí thích hợp. Phương diện kỹ thuật của siêu âm tim thai sớm được thảo luận trong các phần sau và được tóm tắt trong Bảng 16.1 đến 16.3. 

Siêu âm đường âm đạo và đường bụng

Khám siêu âm thai qua đường âm đạo (TVUS) được chấp nhận là vượt trội hơn so với tiếp cận đường bụng ở thai kỳ sớm vì nó cho độ phân giải và chất lượng hình ảnh cao hơn (Hình 16.1 đến 16.5). Hạn chế của khám siêu âm tim qua đường âm đạo gồm mất thêm thời gian, sự bất tiện liên quan đến việc chuẩn bị đầu dò âm đạo và khử trùng sau khi thăm khám xong, yêu cầu các kỹ năng bổ sung của người thực hiện. Tầm nghiêng của đầu dò bị giới hạn trong TVUS, và người thực hiện nên quen với thao tác đầu dò bằng một tay và di chuyển tử cung bằng tay kia để tiếp cận tối ưu ngực thai nhi nếu cần thiết. Vị trí thai nhi tối ưu nhất là nằm ngang thấp tạo khoảng cách gần nhất từ đầu dò âm đạo đến ngực thai nhi, điều này giải thích lý do tại sao khám TVUS tốt nhất đạt được trước 13 tuần thai kỳ (CRL <70 mm) khi kích thước tử cung vẫn còn nhỏ và thai thường nằm ngang (Hình 16.5). Quá 13 tuần, thai thường có vị trí theo chiều dọc và đầu dò âm đạo độ phân giải cao có độ sâu giảm dẫn đến hạn chế tiếp cận tim thai. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, hình ảnh tim thai thực hiện bằng siêu âm đường âm đạo có thể thu được và đáng tin cậy trong hầu hết các trường hợp giữa 12 đến 13 tuần (CRL 60-70 mm). Sau 13 tuần và với các đầu dò mới nhất, siêu âm đường bụng cho chất lượng hình ảnh tuyệt vời với giả định thai được thăm khám ở vị trí lưng sau. Chúng tôi khuyến khích người đọc sử dụng các đầu dò thẳng đường bụng (nếu có) trong đánh giá tim thai sớm vì chúng đã chứng tỏ tăng chất lượng hình ảnh tim thai (Hình 16.6) (xem thêm Chương 12).

Chúng tôi đề xuất một cách tiếp cận nhắm đến tuổi thai, thể trạng cơ thể mẹ và vị trí thai trong tử cung (Hình 16.5). Kết hợp siêu âm đường âm đạo và đường bụng có thể cần thiết trong một số trường hợp, đặc biệt khi nghi ngờ có bất thường tim thai.

Các mặt cắt trên siêu âm thang xám và Doppler màu

Siêu âm thang xám

Cách tiếp cận tối ưu siêu âm thang xám được tóm tắt trong Bảng 16.1. Mặt cắt ngang bụng (Hình 16.7) và mặt cắt bốn buồng (Hình 16.3 và 16.8) có thể thu được chắc chắn với thang xám hai chiều trong thai kỳ sớm. Giải phẫu tim bất thường ở mặt cắt bốn buồng có thể được thể hiện rõ ràng sớm ngay từ 11 đến 12 tuần thai kỳ trong điều kiện siêu âm tối ưu (Hình 16.9). Trong nhiều trường hợp, hướng giải phẫu của đường ra thất phải và thất trái không thấy được chắc chắn do kích thước của chúng nhỏ. Tuy nhiên, mạch máu có thể được nhận định tốt hơn bằng cách thay đổi góc phát tia siêu âm để điều chỉnh các mạch máu lớn ở vị trí nằm ngang (Hình 16.10). Trong hầu hết trường hợp, nên sử dụng Doppler màu hoặc Doppler năng lượng độ phân giải cao để thể hiện một cách chắc chắn các mạch máu lớn (xem phần tiếp theo). 

Siêu âm Doppler màu

Doppler màu là công cụ chính ở siêu âm tim ba tháng đầu và việc sử dụng nó không chỉ giới hạn trong việc phát hiện dòng chảy. Do độ phân giải thang xám thấp ở giai đoạn này, Doppler màu cực kỳ hữu ích trong phác họa hình dạng mạch máu và các buồng tim và vì thế dùng để đánh giá cấu trúc khá tốt (Hình 16.11 đến 16.13). Tối ưu sử dụng Doppler màu được tóm tắt trong Bảng 16.2. Doppler màu hoặc Doppler năng lượng độ phân giải cao cho những ưu điểm đáng kể trong siêu âm tim trong thai kỳ sớm do thể hiện dòng chảy và hướng dòng chảy. Trên mặt cắt bốn buồng đỉnh hoặc đáy, đổ đầy Doppler màu hoặc Doppler năng lượng độ phân giải cao có vách ngăn là một sự bổ sung tốt cho hình ảnh thang xám (Hình 16.11). Chúng tôi thấy rằng Doppler màu ở mặt cắt bốn buồng trong khám siêu âm tim sớm là rất cần thiết trong việc xác định giải phẫu tim bình thường và bất thường (Hình 16.4, 16.6, 16.11 và 16,14). Việc thể hiện Doppler màu hoặc Doppler năng lượng độ phân giải cao của các mặt cắt ngang ngực cao (gồm mặt cắt ba mạch máu-khí quản và mặt cắt ngang ống động mạch) vượt trội hơn so với những gì có thể được cung cấp trên đánh giá thang xám đơn độc (Hình 16.12 và 16,13). Cung động mạch chủ và cung ống động mạch dễ được nhận ra hơn về vị trí giải phẫu, kích thước, tình trạng mở, hướng dòng máu (Hình 16.12, 16.13 và 16.15), và chứng tỏ các tĩnh mạch phổi phải và trái đổ vào nhĩ trái (Hình 16.13 B). Một số bất thường tim liên quan đến đường ra có thể được nhận ra ở mặt cắt ba mạch máu-khí quản và cung động mạch chủ phải cũng có thể được xác định rõ ràng (Hình 16.15). Bảng 16.3 tóm tắt các dấu hiệu bất thường trên thang xám và Doppler màu ở mặt cắt bốn buồng và mặt cắt ba mạch máu-khí quản ở siêu âm thai kỳ sớm. 

 

Siêu âm ba chiều

Trong thai kỳ sớm, thỉnh thoảng thai không ở vị trí để thể hiện được tất cả các phần tim và khi đó thu thể tích ba chiều (3D) sử dụng STIC có thể hữu ích trong tái tạo lại các mặt phẳng quan tâm (Hình 16.16). Khi STIC thu trên Doppler màu hoặc Doppler năng lượng độ phân giải cao thì gốc và hướng của các mạch máu lớn có thể đánh giá chắc chắn hơn. Hình 16.16 thể hiện một trường hợp tái tạo mặt cắt bốn buồng, năm buồng, ba mạch máu-khí quản từ thể tích 3D và tái tạo kiểu hiển thị glass-body.

● DẤU HIỆU GIÁN TIẾP CỦA CÁC BẤT THƯỜNG TIM Ở THAI KỲ SỚM

Người thực hiện siêu âm khảo sát hình thái thai sớm hoặc sàng lọc NT không phải lúc nào cũng thành thạo trong việc đánh giá tim thai. Một số dấu hiệu siêu âm liên quan đến tăng nguy cơ mắc bệnh tim bẩm sinh (CHD) trong thai kỳ sớm đã được mô tả. Khi thấy những dấu hiệu siêu âm này sẽ làm tăng nghi ngờ về sự hiện diện của CHD, và sau đó nên thực hiện khám siêu âm tim thai có chủ đích. Bảng 16.4 liệt kê các dấu hiệu siêu âm liên quan với tăng khả năng các bất thường tim bẩm sinh ở thai kỳ sớm. Bốn trong số các dấu hiệu đặc trưng phổ biến được thảo luận trong phần này.

Độ mờ da gáy dày

Đo độ mờ da gáy giữa 11+0 và 13+6 tuần thai kỳ hiện nay đã được chấp nhận là phương pháp hiệu quả để đánh giá nguy cơ cá nhân đối với các bất thường nhiễm sắc thể của thai. Ngoài các bất thường nhiễm sắc thể, một số báo cáo đã ghi nhận mối liên quan giữa tăng NT (Hình 16.17) và dị tật thai quan trọng, bao gồm dị tật tim (1, 18). Nghiên cứu ban đầu của Hyett và cộng sự đã quan sát thấy 56% thai hiện diện CHD quan trọng có NT dày và các tác giả đề nghị sử dụng số đo NT làm một công cụ sàng lọc CHD tốt. Các nghiên cứu triển vọng sau này trong sàng lọc dân cư hỗn hợp nguy cơ thấp và cao cho thấy độ nhạy khá khiêm tốn của tăng đơn độc NT khi xem là công cụ sàng lọc, và trong một phân tích tổng hợp, độ nhạy 21% đã được báo cáo với NT trên bách phân vị 99. Tất cả các nghiên cứu về sự liên quan của NT với CHD đã chỉ ra rằng sự tỷ lệ lưu hành của các dị tật tim quan trọng tăng theo cấp số nhân với bề dày NT và không có ưu thế rõ với CHD cụ thể (Hình 16.18). Một quan sát đáng quan tâm khác ở thai có NT dày là độ nhạy của bất thường tim tăng lên khi các chỉ điểm bổ sung liên quan đến rối loạn chức năng tim được tìm thấy, chẳng hạn như dòng ống tĩnh mạch (DV) bất thường hoặc hở ba lá (TR). Cơ chế sinh lý bệnh cơ bản liên quan đến sự hiện diện của NT dày và bất thường tim chưa được
hiểu biết đầy đủ.

Sóng A đảo ngược trong ống tĩnh mạch

Trong điều kiện bình thường dòng chảy ống tĩnh mạch có dạng hai pha trong một chu kỳ tim (xem Chương 13), và dạng bất thường đặc trưng thể hiện sóng A đảo ngược hoặc không có sóng A trong quá trình tâm nhĩ co kỳ tâm trương. Dạng sóng Doppler DV này có liên quan với việc tăng nguy cơ lệch bội khi siêu âm ở 11 đến 13 tuần (Hình 16.19). Matias và cộng sự là những người đầu tiên quan sát thấy mối liên quan giữa sự xuất hiện của sóng A đảo ngược trong DV lúc 11 đến 13 tuần và CHD ở thai nhi có NT dày. Một nghiên cứu phân tích tổng hợp gần đây đã báo cáo rằng sự kết hợp của sóng A DV bất thường với NT dày cho thấy 83% CHD so với 19% khi NT nằm trong khoảng bình thường. Cơ chế sinh lý bệnh cơ bản giữa sóng A DV đảo ngược với CHD thai không rõ, tuy nhiên tăng tiền tải nhĩ phải do tăng thể tích, áp lực hoặc cả hai trong CHD có thể là một trong những cơ chế cơ bản.

Hở van ba lá

Hở ba lá (TR) được thảo luận riêng trong Chương 20. TR có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và có thể thoáng qua. TR lúc 11 đến 13 tuần tuổi thai được ghi nhận ở thai có lệch bội và cũng kết hợp với CHD (Hình 16.20). Trong một nghiên cứu gần đây ở 85 thai bị dị tật tim thì NT trên bách phân vị 95, hiện diện TR hoặc sóng A DV đảo ngược được quan sát thấy tương ứng ở 30 (35.3%), 28 (32.9%) và 24 (28.2% ) thai có bất thường tim. 

 

Trục tim

Đánh giá trục tim thai là một phần của khám siêu âm tim thai trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba thai kỳ. Trong cửa sổ tuổi thai này, trục tim bình thường được xác định ở góc 45 độ bên trái đường giữa với khoảng ± 20 độ. Một số nghiên cứu đã thiết lập mối liên quan giữa trục tim bất thường và CHD trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba thai kỳ. Sự kiện phôi cụ thể dẫn đến trục tim bất thường ở một số thai có bất thường tim hiện chưa được biết; tuy nhiên việc xoay quá mức của vòng lặp củ thất trong quá trình tạo phôi sớm đã được đề xuất như là cơ chế cơ bản.

Xác định trục tim trong thai kỳ sớm có thể giúp ích đặc biệt trong việc xác định CHD do những hạn chế liên quan đến hình ảnh tim thai trong cửa sổ thai kỳ này. Dựa trên một nghiên cứu tiến cứu về đo trục tim trong khoảng từ 11 đến 15 tuần tuổi thai ở 100 thai nhi, chúng tôi thấy trục tim bình thường nằm trong khoảng từ 40 đến 60 độ (Hình 16.21). Sử dụng Doppler màu hoặc năng lượng rất hữu ích trong kỹ thuật đo trục tim ở thai kỳ sớm bằng cách xác định vách liên thất sau đó hướng dẫn vị trí chính xác của đường góc cắt ngang.

Trong một thiết kế nghiên cứu bệnh-chứng, gần đây chúng tôi đã báo cáo về trục tim của 197 thai mắc bệnh tim bẩm sinh đã được xác nhận trong khoảng thời gian từ 11 tuần đến 14 tuần 6 ngày và phù hợp với nhóm đối chứng. Trong nhóm đối chứng, trục tim trung bình là 44.5 ± 7.4 độ và không thay đổi đáng kể trong thai kỳ sớm. Trong nhóm bệnh tim bẩm sinh, 25.9% thai có trục tim trong giới hạn bình thường. 74.1% trục tim bất thường, bao gồm 110 thai trong nhóm lệch trái (trục tim trên bách phân vị 97.5), 19 thai trong nhóm lệch phải (trục tim dưới bách phân vị 2.5) và 17 thai trong nhóm trục tim không xác định. Thực hiện đo trục tim trong phát hiện dị tật tim bẩm sinh quan trọng tốt hơn đáng kể so với dày NT, TR hoặc sóng A đảo ngược trong DV được sử dụng đơn độc hoặc kết hợp. Hình 16.22 và 16.23 thể hiện các phép đo trục tim ở hai thai với trục tim lệch trái ở thai kỳ sớm. 

 

● CHỈ ĐỊNH SIÊU ÂM TIM THAI SỚM

Hầu như tất cả các chỉ định khám siêu âm tim thai đã biết đều có thể được áp dụng để khám siêu âm tim trong thai kỳ sớm. Tuy nhiên dựa trên kinh nghiệm của chúng tôi, các chỉ định giới thiệu bệnh nhân siêu âm tim thai sớm có giới hạn và chủ yếu bao gồm NT dày, tiền sử gia đình rõ của một đứa trẻ trước đó bị bất thường tim nghiêm trọng, hoặc sự hiện diện của dị tật lớn ngoài tim được phát hiện trong ba tháng đầu. Với việc áp dụng rộng rãi sàng lọc thai trong ba tháng đầu những năm gần đây, NT dày trở thành chỉ định phổ biến nhất cho siêu âm tim thai sớm (xem Chương 1). Khi gặp NT dày, chúng tôi thích thực hiện siêu âm tim thai sớm trong cùng một lần thăm khám thay vì lên lịch lại cho bệnh nhân ở 15 đến 16 tuần để đánh giá tim thai. Thêm vào đó thì sự hiện diện của trục tim bất thường trong thai kỳ sớm cho phép khám có chủ đích tim thai và đã cho thấy sự kết hợp tăng lên với CHD ngay cả với NT bình thường. Sự hiện diện của dòng chảy ngược trong DV hoặc phát hiện hở ba lá hoặc hai lá trong thai kỳ sớm là một chỉ định khác cho siêu âm tim thai sớm.

● PHƯƠNG DIỆN AN TOÀN

Siêu âm là một kỹ thuật hình ảnh an toàn cho thai khi sử dụng thích hợp và khi cần thông tin y tế về thai. Tuy nhiên, năng lượng siêu âm phóng thích tới thai không thể giả định hoàn toàn không gây hại, và tồn tại khả năng (ví dụ như hiệu ứng sinh học) có thể được xác định trong tương lai. Vì thế siêu âm tim thai kỳ sớm chỉ nên được thực hiện khi có chỉ định y tế hợp lý, và nên sử dụng thiết lập tiếp xúc siêu âm thấp nhất có thể để có được thông tin chẩn đoán cần thiết theo nguyên tắc ALARA (đạt mức thấp hợp lý nhất có thể). Siêu âm Doppler mà đặc biệt Doppler xung có năng lượng cao hơn thang xám hay Doppler màu và vì thế nên hạn chế dùng trong ba tháng đầu trừ các chỉ định đặc biệt được đề nghị do bất thường khi đánh giá trên thang xám hoặc Doppler màu. Thêm vào đó nên hạn chế thời gian khám và tuân thủ các nguyên tắc an toàn của siêu âm. Các tác giả khuyến cáo thu quét nhanh cineloop trên Doppler màu và sau khi hình ảnh được tạm ngưng thì các hình ảnh lẻ có thể lấy từ cineloop rồi lưu trữ vào kho hình ảnh. Kỹ thuật này hạn chế thời gian tiếp xúc Doppler màu với thai. Nguy cơ tiềm ẩn nên được cân bằng với lợi ích của chẩn đoán
sớm khi nghi ngờ bất thường tim phức tạp.

● LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ CỦA SIÊU ÂM TIM THAI SỚM

Thể bệnh của các bất thường tim gặp trong thai kỳ sớm khác với ở tam cá nguyệt hai và ba. Một số bất thường tim được chẩn đoán trong thai kỳ sớm có liên quan với phù thai hoặc bất thường nhiễm sắc thể và có thể dẫn đến tử vong thai trước khi đến tam cá nguyệt hai. Người ta thường tin rằng các bất thường tim được chẩn đoán trong thai kỳ sớm phức tạp hơn và có mối liên hệ cao hơn với các bất thường nhiễm sắc thể so với các trường hợp thấy ở tam cá nguyệt hai và ba. Siêu âm tim sớm cho một số lợi ích với bệnh nhân, chẳng hạn như sớm an tâm tim thai bình thường ở những bệnh nhân có nguy cơ cao dị tật tim, và khi đã chẩn đoán dị tật tim quan trọng thì có thể lựa chọn phương pháp chấm dứt thai ở tam cá nguyệt một (chấm dứt thai lúc này có nguy cơ thấp hơn đáng kể so với ở tam cá nguyệt hai) (Bảng 16.5).

Hạn chế của siêu âm tim sớm là cần siêu âm tim có chủ đích lại trong tam cá nguyệt hai khi hình thái tim bình thường trong thai kỳ sớm, vì một số bất thường tim có thể thấy rõ hơn ở thai kỳ muộn hơn như thông liên thất, hẹp van, bất thường tĩnh mạch phổi… Một hạn chế khác của siêu âm tim sớm là đòi hỏi người thực hiện có kỹ năng và kinh nghiệm, thành thạo trong siêu âm tim sớm. Hơn nữa, siêu âm tim sớm hoàn chỉnh có thể yêu cầu kết hợp giữa siêu âm đường bụng và đường âm đạo và điều này có thể tốn thêm thời gian.

Trong trường hợp không có phù thai hoặc các bất thường ngoài tim, các tác giả khuyến cáo nên xác định chẩn đoán bất thường tim trong các lần kiểm tra nối tiếp để giảm đến mức có thể các chẩn đoán dương tính giả và âm tính giả. Chẩn đoán dương tính giả trong siêu âm tim thai sớm bao gồm thông liên thất (do mất hồi âm trên thang xám hoặc xảo ảnh Doppler màu), kênh nhĩ thất (nghi ngờ ở thai có tĩnh mạch chủ trên trái và xoang vành dãn), hoặc kích thước tâm thất khác biệt ở thai TR. Các chẩn đoán này có thể giải quyết ở tam cá nguyệt hai. Ngoài ra, định hướng sai đầu dò âm đạo cũng có thể dẫn đến nhận định sai situs bất thường ở thai nhi. Chẩn đoán âm tính giả bao gồm tứ chứng Fallot với hẹp động mạch phổi nhẹ, chuyển vị đại động mạch, kênh nhĩ thất, thông liên thất, hội chứng thiểu sản tim trái hoặc phải, hoặc bất thường cung động mạch chủ (hẹp eo hoặc đứt đoạn động mạch chủ).

Phát hiện các kiểu dòng chảy bất thường ở các mạch máu lớn gần như luôn luôn liên quan với các bất thường tim.

ĐIỂM CHÍNH – Siêu âm tim ở tuổi thai sớm

  • Hầu hết chuyên gia coi kiểm tra tim có chủ đích được thực hiện trong tam cá nguyệt một và đầu tam cá nguyệt hai (10-16 tuần) là kiểm tra tim sớm.
  • Vị trí thai tối ưu nhất để siêu âm tim thai đường âm đạo trong thai kỳ sớm là vị trí ngang thấp.
  • Theo kinh nghiệm của chúng tôi, hình ảnh tim thai được thực hiện đường âm đạo có thể đạt được và đáng tin cậy trong hầu hết trường hợp từ 12 đến 13 tuần (CRL 60-70 mm).
  • Các đường ra được ghi hình tốt nhất trong thai kỳ sớm khi góc phát âm gần như vuông góc với hướng đi của chúng.
  • Doppler màu hoặc Doppler năng lượng độ phân giải cao cung cấp những ưu điểm đáng kể trong siêu âm tim thai sớm bằng cách thể hiện dòng máu và hướng dòng chảy.
  • Thể hiện Doppler màu hoặc Doppler năng lượng độ phân giải cao ở mặt cắt ngang ngực cao (gồm mặt cắt ba mạch máu-khí quản và mặt cắt ngang ống động mạch) vượt trội hơn so với những gì có thể được cung cấp chỉ bằng đánh giá siêu âm hai chiều.
  • Trục tim nằm trong khoảng từ 40 đến 60 độ ở tuổi thai từ 11 đến 15 tuần.
  • Trục tim bất thường trong thai kỳ sớm là một dấu hiệu nhạy với sự hiện diện của CHD, gồm cả những bất thường thân nón
  • Người ta tin rằng các bất thường tim được chẩn đoán trong thai kỳ sớm thì phức tạp hơn và có mối liên hệ cao hơn với các bất thường nhiễm sắc thể so với các trường hợp thấy trong tam cá nguyệt hai và ba thai kỳ.
  • Hạn chế của siêu âm tim sớm bao gồm cần phải siêu âm tim có chủ đích lại trong tam cá nguyệt hai khi hình thái tim bình thường trong thai kỳ sớm.
  • Siêu âm tim thai sớm chỉ nên được thực hiện khi có chỉ định y tế hợp lý và nên dùng cài đặt tiếp xúc siêu âm thấp nhất có thể.

Bản gốc:

  • A Practical Guide to Fetal Echocardiography: Normal and Abnormal Hearts, 3 edition, 2016, Alfred Abuhamad, Rabih Chaoui
  • Chapter 16 –  Fetal Cardiac Examination in Early Gestation

Bản dịch:

Xem thêm:

SÁCH SIÊU ÂM TỔNG QUÁT PHẠM MINH THÔNG

Tải thêm Sách tiếng Việt

Check Also

Video Hội nghị Tim mạch Tối ưu hoá chăm sóc người bệnh xuyên suốt dải bệnh lý tim mạch 2024

Nhằm trao đổi, cập nhật thông tin mới trong chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh tim mạc…